Trình tự nghi thức trong lễ ăn hỏi

Lễ ăn hỏi

1. Ý nghĩa của lễ ăn hỏi

Lễ ăn hỏi còn gọi là lễ nạp cát. Sau lễ vấn danh, bên nhà trai thấy đôi trẻ hợp tuổi, liền đánh tiếng để xin làm lễ ăn hỏi. Tất nhiên phải chọn ngày lành, tháng tốt. Bên nhà trai thường hỏi ý kiến bên nhà gái các chi tiết cụ thể và số lễ vật. Nhà gái nếu muốn lễ to thì nói ý tứ: Họ hàng nội, ngoại đông, bạn bè giao du rộng, nhà trai xem đó mà biện lễ.

Ngày xưa lễ này ở nông thôn thường có một vài buồng cau to độ ba, bốn trăm quả (đủ số cau biếu, mỗi phán 3 quả, ít đi là 1 quả - không bao giờ 2 quả - vì cho đó là thô tục); dăm chai rượu trắng; một mâm xôi gấc; một cái thủ lợn. Ở thành phố thì xôi gấc, lợn quay, trà, rượu máu và bánh trái, trầu, cau... Sau này người ta bỏ bớt xôi gấc, lợn quay, mà thay vào đó là các loại bánh dân tộc như: bánh chưng, bánh dày, bánh cốm, bánh phu thê. Bánh cốm gói lá chuối xanh mướt buộc hai chiếc lạt nhuộm đỏ hình chữ thập rất đạp. Các nhà sang trọng ở Hà Nội hoặc các tỉnh thường chuộng bánh cốm Nguyên Ninh - là nhà hàng bánh cốm nổi tiếng.

Bánh cốm phải kèm với bánh phu thê làm bằng loại bột lọc, nhuộm màu vàng trong như ngọc. Bánh cốm có hình vuông tượng trưng cho âm, bánh phu thê tròn tượng trưng cho dương (cũng biểu thị nam và nữ, trời và đất). Bánh cốm, bánh phu thê lại thêm mứt sen, chè cân loại hảo hạng, cau tươi và trầu không, sao cho tương xứng với số bánh trái trên, cùng với dăm ba chai rượu màu.

Việc dẫn lễ ngày xưa thường có bà mối, mẹ hoặc cha chú rể. Cũng có thể là chú, bác, những người có tư cách đại diện cho cha mẹ chú rể. Dăm bảy, thậm chí mười tráp quả đựng lễ vật trên phủ vải điều hoặc khăn xatanh đỏ do các cô gái 16 - 17 tuổi mặc áo dài đẹp, đội trên đầu. Các nhà giàu xưa thường thuê xe tay kéo gọng đồng rất sang, cũng có nhà dùng xe song mã.

Chú rể đi kèm với vài người bạn trai cùng tuổi, những người này sẽ là người phù rể vào lễ cưới.

Bên nhà gái trong dịp này thường mời bà con thân cận nhất đến dự và có làm cơm thiết nhà trai. Lễ vật nhiều nhưng chỉ đặt tượng trưng lên bàn thờ. Khi nhà trai ra về, nhà gái thu xếp trả lại tất cả các tráp quả đựng lễ vật. Trong mỗi tráp quả đều để lại mỗi thứ một ít, gọi là “lại quà" cho nhà trai.

2. Trình tự cúng lễ trong lễ ăn hỏi

Chuẩn bị trước buổi lễ

- Hai gia đình sẽ bàn bạc và thống nhất số lượng tráp (thông thường số lượng tráp ở miền Bắc là lẻ, từ 3, 5, 7 đến 15 tráp tùy nhà, còn ở miền Nam, tráp lại là số chẵn). Trong tráp phải có lễ đen, là phong bì tiền nhà trai chuẩn bị để thắp hương trên bàn thờ nhà gái. số lượng phong bì lễ đen có thể tùy thuộc vào số lượng bàn thờ của nhà gái hoặc do nhà gái thách cưới.

- Tùy số lượng tráp, nhà trai phải chuẩn bị đội nam thanh niên trẻ để bê tráp và nhà gái cũng chuẩn bị đội nữ có số lượng tương ứng để đỡ tráp.

- Hai nhà lựa chọn ra một giờ đẹp để làm lễ ăn hỏi tại nhà gái. Tới đúng ngày đã định, đoàn đại diện nhà trai sẽ lên đường tới nhà gái.

- Để đảm bảo tới nhà gái đúng giờ, gia đình nhà trai cần tính toán thời gian đi lại cũng như các trở ngại trên đường. Tốt nhất nhà trai nên đi sớm trước giờ làm lễ khoảng 30 phút để tránh tắc đường và có thời gian chuẩn bị.

Chào hỏi và trao lễ vật

Chào hỏi và trao lễ vật

- Khi tới giờ đẹp, đoàn ăn hỏi nhà trai sắp xếp đội hình theo thứ bậc trong gia đình, đi đầu là ông bà, bố mẹ, chú rể, đội bê tráp và các thành viên liên quan.

- Sau khi hai nhà chào hỏi, đoàn bê tráp nam sẽ trao lễ cho đội đỡ tráp nữ để đỡ mâm quả vào nhà.
- Đội bê tráp nam và đội bê tráp nữ sẽ trao phong bao lì xì, trả duyên cho nhau. Các phong bao này do hai nhà chuẩn bị, nhà trai sẽ chuẩn bị phong bao và đưa cho đội nam, nhà gái sẽ chuẩn bị số phong bao tương ứng đưa cho đội nữ. Số tiền trả duyên nên được hai nhà thống nhất trước.

Mời nước, trò chuyện

Mời nước, trò chuyện

- Sau khi trao tráp, gia đình hai nhà sẽ cùng ngồi uống nước, nói chuyện. Đầu tiên, gia đinh nhà gái sẽ giới thiệu các đại diện trong buổi lễ. Để đáp lại, nhà trai cũng giới thiệu các đại diện của gia đình.

- Đại diện nhà trai sẽ phát biểu lý do và giới thiệu về các mâm quả mà nhà trai mang đến.

- Đại diện nhà gái đứng lên cảm ơn, chấp nhận tráp ăn hỏi của nhà trai.

- Mẹ chú rể và mẹ cô dâu sẽ cùng mở tráp.

Cô dâu ra mắt hai gia đình

- Gia đình nhà gái cho phép chú rể lên phòng đón cô dâu xuống chào gia đình nhà trai (trước khi chú rể lên đón, cô dâu không được xuất hiện trong lễ ăn hỏi).

- Cô dâu sẽ xuống chào hỏi và rót nước mời gia đình chú rể, ngược lại, chú rể cũng sẽ rót nước mời gia đình cô dâu.

Thắp hương trên bàn thờ của nhà gái

- Sau khi cô dâu ra mắt, mẹ cô dâu sẽ lấy từ mâm ngũ quả một số vật phẩm và lễ đen để mang lên bàn thờ thắp hương cúng ông bà, tổ tiên.

- Bố mẹ cô dâu sẽ đưa cô dâu và chú rể lên thắp hương trên bàn thờ nhà gái.

Bàn bạc về lễ cưới

- Sau khi cúng ông bà tổ tiên xong, bố mẹ hai nhà sẽ thống nhất ngày giờ đón dâu và lễ cưới.

- Trong thời gian đó, cô dâu chú rể mời nước quan khách và chụp ảnh lưu niệm cùng mọi người.

Nhà gái lại quà cho nhà trai

- Nhà gái sẽ chia đồ lại quả cho nhà trai và trả lại các mâm tráp. Lưu ý, khi chia đồ lại quả không được dùng kéo cắt mà phải xé bằng tay, đồ lại quả phải là số chẵn (thông thưởng là 10 lễ vật) và khi nhà gái trả lại mâm tráp phải để ngửa nắp lên, không được đóng lại.

- Nhà gái trao đồ lại quả cho nhà trai và nhà trai xin phép ra về.

- Sau khi đã kết thúc lễ ăn hỏi, nhà gái sẽ mời tất cả các thành viên có mặt cùng ở lại dùng bữa cơm thân mật. Trong trường hợp nhà trai ở xa, nhà gái cũng sẽ mời nhà trai ở lại dùng cơm luôn. Tuy nhiên việc này phải được thống nhất từ trước để nhà gái có kế hoạch đặt cỗ và chuẩn bị tiếp đón chu đáo.

Thông thường, lễ ăn hỏi diễn ra trong khoảng từ 30 phút đến 1 tiếng đồng hồ. Tuy nghi lễ không quá phức tạp nhưng đây được coi như lễ đính ước truyền thống không thể thiếu trong đám cưới Việt Nam, nên dù cô dâu chú rể hiện đại vẫn cần phải tuân thủ cũng như thực hiện đúng trình tự lễ ăn hỏi để đám cưới được diễn ra suôn sẻ.

Quan hệ hai bên sau lễ ăn hỏi

Sau lễ ăn hỏi, chàng rể được thừa nhận như con cái trong nhà. Phải thường xuyên thăm hỏi gia đình bên vợ, săn sóc khi có người nhà ốm đau, giúp việc khi nhà có công việc, coi như đây là việc nhà minh. Các nhà nho xưa gọi chàng rể lúc này là “bán tử chi tình" (tình cảm như nửa con trai).

Ngày xưa, từ sau lễ ăn hỏi đến lễ cưới kéo dài hằng năm, thậm chí vài ba năm. Đám nào cưới gấp sau khi ăn hỏi người ta cho là khiếm nhã, hoặc thường bị dân làng dị nghị và nghi là phía con gái có chuyện không bình thường.

Trong thời gian từ lễ ăn hỏi đến lễ cưới, người con rể phải theo đủ các lễ sêu Tết trong năm. Tức là mùa nào thức ấy, đù các tháng trong năm, người rể chưa cưới ấy phải có quà lễ biếu cha mẹ vợ một cách chu đáo, chân thành, cẩn thận, ở vùng đồng bằng Bắc bộ thời ấy thường: tháng 3 sêu vải (theo âm lịch); tháng 5: đậu xanh, ngỗng; tháng 7: na, nhãn lồng; tháng 9: cốm, hồng, gạo mới, chim ngói; tháng chạp: cam, mứt; Tết Nguyên đán thì phong phú hơn, sang hơn.

Cũng có nơi, có nhà hiếm con, bắt chàng trai sau lễ ăn hỏi phải đến ở rể từ một đến ba năm, rồi mới được cưới. Thời gian ở rể cũng là thời kỳ thử thách: từ lao động đến cung cách làm ăn, thái độ đối nhân xử thế... Đây cũng là thời kỳ chàng rể sẵn sàng làm việc không tiếc sức, lại phải khiêm tốn, vui vẻ không chỉ để lọt “mắt xanh” của nàng, mà chính là làm vừa lòng bố mẹ vợ, thậm chí phải bỏ qua nhiều chuyện dù có thấy “chướng tai gai mắt”. Vì thế người ta nói: “ở rể như chó nằm gầm chạn" là vậy.

Tục ở rể phổ biến và chắc gây phiền hà trong mối quan hệ xã hội, trở thành hủ tục (thời gian kéo dài, chàng rể bị lợi dụng quá lâu), nên Lê Thánh Tôn (thế kỷ XV) phải ra điều ngăn cấm: “Khi đã có lễ xin cưới rồi, thì cấm không được để đến 3 - 4 năm mới cho rước dâu. Sau khi nhận lễ hỏi phải chọn ngày cưới”.

Viết bình luận