Những nghi lễ chính tại đền, miếu, phủ
Mục lục nội dung
Các Đền, Miếu, phủ lớn thường phụng thờ thần linh, Thành hoàng, thánh Mẫu. Các nơi thờ tự này là biểu hiện một tập tục văn hoá truyền thông, thể hiện sự kính trọng, nhớ ơn các vị tiền nhân đã có công với làng xã và với dân tộc trong lịch sử.
Các nơi này đều tổ chức lễ hội dâng hương định kỳ vào các dịp tuần, tiết, sóc, vọng. Ví như, vào dịp cấy lúa, nông dân thường tổ chức “Lễ Hạ điền”. Khi lúa trổ đòng lại có kỳ lễ dâng hương gọi là “Lễ Thượng điền ” hay “Lễ Thượng tâm” tức lễ cơm mới vào tháng 9 âm lịch. Ngoài ra, tập tục này cũng thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của người Việt Nam. Đó là đạo lý mà trong dòng họ thì có công ơn của tổ tiên, trong làng xã thì có công của thành hoàng... là những người đã có công khai phá lập làng, đánh giặc hay cứu nạn trừ tai.
Ngoài các kỳ dâng hương nói trên, trong năm thường có những kỳ dâng hương lớn vào những kỳ dân làng mở hội vào đám. Hội có thể mở vào những ngày nhân dịp mùa xuân hay mùa thu, hoặc có thể chọn ngày sinh hay ngày mất của thần linh để mở hội đám. Những kỳ lễ dâng hương này thường kéo dài nhiều ngày. Trong các dịp này, ngoài việc tế thần linh, thánh Mẫu, nhân dân thường tổ chức hội hè với nhiều trò vui dân gian.
Đa phần các Đền, Miếu, Phủ thờ Thần, thờ Thánh là những Nhân thần, Nhiên thần ban điều phúc đức cho dân, nên việc thờ cúng là việc đền ơn đáp nghĩa theo đạo Iý dân tộc, thiết nghĩ nên làm. Đây không phải là tiêu cực, hay mê tín dị đoan. Còn nếu quá đà, hoặc tin vào điều nhảm nhí thì lại gánh chịu hậu quả trái ngược lại, thậm chí còn tiền mất, tật mang.
Từ xưa đến nay, lễ Đền, Miếu, Phủ thờ đã trở thành tập tục lâu đời của người Việt. Mà đã là tập tục của làng xã, dân tộc tất có sự lựa chọn để bảo tồn và trở thành đời sống tinh thần của cộng đồng. Nhưng đất nước ta có biết bao biến cố lịch sử. Kẻ thù lại muốn xoá đi thuần phong mỹ tục của dân tộc nên việc phục hồi vốn cổ rất khó khăn, ngay các nghi lễ cũng chỉ dựa vào một số sách cũ, cùng với truyền thuyết dân gian và thực thi. Nói đến nghi lễ tất phải có việc sắm lễ, rồi mới đến dâng lễ và các bài văn khấn.
1. Sắm lễ
Việc sắm lễ khi đến Đền, Miếu, Phủ không có một ấn định cụ thể nào cả mà tuỳ vào hoàn cảnh, tùy tâm mỗi người mà sắm lễ:
- Có người chỉ cần có thẻ hương đến thắp hương rồi tham quan vãng cảnh.
- Cũng có người sắm lễ chay: hương, hoa, oản, quả...
- Hoặc sắm lễ mặn gồm thịt gà, lợn... nấu chín, hay để sống mà dân gian gọi là “lễ đồ sống” như trứng sống, thịt lợn sống, gạo, muối... để đặt tại ban Ngũ hổ, Thanh xà, Bạch xà...
- Cỗ mặn Sơn Trang: gồm cua, ốc, bún, chanh, ớt... và thường được sắm theo con số 15. Nghĩa là lễ vật chia thành 15 phần và liệu có phải là số lượng các vị thuộc ban Sơn Trang hay không?
- Lễ ban thờ Cô, thờ Cậu: gồm hương hoa, oản quả... còn có cả các thứ làm bằng giấy đẹp, tượng trưng các đồ chơi của trẻ nhỏ như cành hoa, con chim, chiếc kèn, chiếc trống... và các túi nhỏ xinh xắn đựng các đồ chơi đó.
Song điều cơ bản là lễ Thần, Thánh, kể cả Thánh mẫu không nhất nhất phải lễ mặn. Nghĩa là có cả cỗ chay: hương, hoa, đẳng, trà, quả thực. Do vậy việc sắm lễ không phải câu nệ, không có lễ bắt buộc. Nhưng phải giữ điều thanh tịnh và điều cốt yếu là tâm thành. Nếu khi sắm lễ mà thiếu những yếu tố này thì dù mâm cao cỗ đầy cũng khó thấu đến Thần linh.
2. Dâng lễ
Việc dâng lễ các ban cũng được dân gian thực hiện linh hoạt. Có nơi làm lễ trình ban thổ địa, thủ đền trước, rồi mới vào dâng lễ theo thứ tự ban chính, ban phụ như ở đình thờ. Nhưng lại có cách mới nhất là việc bài trí ở đền, miếu, phủ không đầy đủ, thiếu hẳn các ban thổ địa, thủ đền thì việc lễ có thể từ ban công đồng đầu tiên, hoặc từ chính cung trước, rồi ra ban công đồng dâng tấu sớ, hay làm lễ.
Đối với phủ thờ thì ngoài việc dâng lễ, khấn cầu ở các ban. Con nhang đệ tử còn lên các giá đồng ông Hoàng, hoặc đồng Cô, đồng Cậu để chầu hầu trước cửa thánh Mẫu.
Những trường hợp lễ có lên đồng thì thời gian thường kéo dài, phải dâng hết tuần nhang này đến tuần nhang khác cho đến khi hết các gia đồng, hết đoạn văn chầu. Hát văn, hay hát Chầu văn là loại hình ca nhạc phục vụ nghi lễ tôn giáo, cũng như tín ngưỡng đền, miếu, phủ. Nói rõ hơn là hát văn rất cần thiết cho các giá đồng. Hát chầu văn liên quan đến việc xướng trong nghi lễ cửa mẫu, cửa đền.
Phần lớn các giá văn cổ truyền nhằm chầu, hầu các vị Tiên Thánh nặng tính huyền thoại, các vị nữ Thần trong tín ngưỡng dân gian, những người có công với dân với nước và các vị anh hùng cứu quốc... Điều đặc biệt ở nội dung các bài hát chầu: hầu như ngợi ca cảnh quan thiên nhiên núi sông, cây cỏ... Tán dương công lao dẹp giặc giữ yên bờ cõi, cũng như tài thao lược bắt quỷ, trừ tà cứu độ cho muôn dân... của các Mẫu, các Cô, các Quan hoàng cũng như Đức Thánh Trần, Thánh Phạm , Thánh Không Lộ thiền sư... Do vậy hễ thấy hát Chầu văn là thấy vui, thấy hòa đồng khiến nhiều người hưng phấn muốn vỗ tay, muốn thả hồn bay theo cây cỏ núi sông, cùng với cõi Thần Tiên siêu phàm tươi đẹp.
Vào dịp lễ hội, khách hành hương rất đông, do vậy khi lễ phải giản tiện các tình tiết thỉnh chuông, hoặc đọc văn... Tuy vậy, khách hành hương vẫn đặt văn khấn, sớ tấu lên ban, khấn nôm na mục đích kêu cầu giống như ghi trong sớ văn, rồi đem hoá sớ văn, tin tưởng vào sự siêu phàm của Thánh Thần sẽ thấu tỏ mà độ trì cho thân cung, cùng gia quyến sở cầu đắc nguyên.
Trong trường hợp khách hành hương có đặt tiền, vàng ở các ban thì sau khi gần tàn một tuần nhang, sẽ thắp tiếp tuần nhang khác, rồi vái ba vái xin hạ lễ, đồng thời đem vàng, tiền ra nơi quy định hoá. Nhưng thường hoá theo từng ban, không nên gộp cả vào và hoá cùng lúc.
Một số đồ lễ ở ban thờ Cô, thờ Cậu, thờ Mẫu... như khăn chầu, gương, lược... thì khi hạ lễ, để lại trên ban, đồng thời nói với nhà đền, thủ nhang biết để họ sắp đặt trên ban chứ không đem hoá ngay. Việc hoá các đồ lễ dâng tiến sẽ do thủ nhang làm một thời gian phù hợp nào đó.
Khi hạ lễ, tín chủ thường giành một phần lộc biếu thủ nhang, có thể đặt tiền công đức tu sửa đền, miếu phủ, có thể đặt tiền đèn nhang cho nhà đền, tùy tâm chứ không phải thông lệ. Song do việc làm lễ phải nhờ vả nồi niêu, bếp đun, củi lửa nên khách hành hương để một phần kinh phí bù hao tổn cho nhà đền, theo lẽ sống đời thường để tránh sự thất thố.
3. Văn khấn
Trước kia, văn khấn viết bằng chữ Hán, mỗi khi đi lễ, muốn làm sớ tấu phải tìm thầy viết sớ rất phiền phức. Hiện nay các bài văn viết chữ Hán đó đã được dịch ra chữ quốc ngữ, chỉ cần phô tô rồi điền vào chỗ khuyết như ngày, tháng, năm, tên tín chủ và vợ con, cùng với địa chỉ tín chủ là được. Bản văn này khách hành hương có thể tự đọc, rồi đặt trên đĩa nhỏ trong mâm lễ. Sau khi lễ xong sẽ hoá sớ văn trước, rồi mới hoá tiền vàng, hạ lễ.
Trên cơ sở các bài văn khấn cổ truyền, xin được đơn cử một số bài văn khấn ở cửa đền, miếu, phủ để mọi người suy ngẫm , chọn lọc sử dụng khi đi hành hương, hay khi có sự cố trong gia đình, cần kêu cầu mong được tiêu trừ hạn ách, mọi sự trong gia quyến được thuận lợi hanh thông. Có một số văn khấn có cả chữ Hán, phiên âm , phiên dịch thì nên phô tô cả, rồi nhờ người viết sớ điền thêm phần thủ tục, cho việc khấn cầu được toại nguyện.
Tuy nhiên, khi đi lễ thông thường không nhất thiết phải có văn khấn, cốt ở sự thành tâm là được. Lại có những văn khấn chữ Hán, chỉ nên đọc phần phiên âm, không đọc phần dịch nghĩa. Bởi dịch nghĩa sẽ không toát nổi ý tứ của nội dung kêu cầu.
Dưới đây là hai bài văn khấn tại đền thờ Trần Hưng Đạo như sau:
3.1 Tự Hưng Đạo Đại Vương tả khoán văn thức
Đại Nam quốc Nam Mặc miếu trạch hội đồng thần quan phụng vị trí khoán sự.
Tứ cứ quán .... tỉnh ...... huyện ......xã ............................
Đệ tử ............phu thê đẳng ư.......... niên chính nguyệt sơ lục nhật Thìn thời sinh hạ nhất nam, khẩn khất trí khoán dĩ vọng thành nhân đẳng nhân. Bản miếu đề thỉnh Trần triều nhân vũ Hưng Đạo đại vương điện hạ phủ duyệt thượng tấu Thiên Trường cung miếu thánh giám đặc chuẩn, khâm phụng tứ tính thự danh vi Trần Quốc Thành, hợp khoán địa phương thần quan thì gia tuần sát bảo hựu y thượng tính danh thân mệnh khang ninh tính tình thông tuệ, nghiêm nhất thiết thập loại tà quỷ đẳng vô đắc tứ thiểu.
Giá quan nhân tự, vi giả thiên hiến tư chương lẫm chi - Dặc khoán.
Hữu khoán phó địa phương thổ chủ tư chi thần.
Chuẩn thứ, tịnh thông sức tiếp cảnh chính trực thần chu tri.
Thiên vận ........ niên chính nguyệt nhị thập lục nhật.
Lễ Trần Hưng Đạo văn
Phục dĩ
Tức Mặc cố hương tự Bắc thiên lai hương hỏa địa, Trần triều hiển thánh kị Nam thanh giáo đức ân thâm. Nhất ý sở cầu, thiện phương tất ứng.
Viên hữu Việt Nam quốc tỉnh thị huyện, phường xã thôn nhai môn bài y vu Linh từ cư, phụng Đại Vương cúng dàng, khất cầu giải hạn tiêu tai, bản mạnh diên trường, gia môn khang thái sư. Kim thần tín chủ hợp đồng lão thiếu nội ngoại đẳng, tức nhật ngưỡng can thánh thính, phủ sát phàm gian, ngôn niệm thần đẳng sinh cư trọc thế, thường cầu ôn bão vi tôn, số bẩm thương khung duy niệm khang cường thị trọng. Phi bằng bái đảo nhương trù, hạt đắc hanh thông phúc khánh.
Cung duy
Trần triều hiển thánh nhân vũ Hưng Đạo đại vương thượng thượng đẳng thần vị tiền.
Trần triều hiển thánh vương phụ vương mẫu vương tử vương tế vương thân liệt vị tiền.
Đương niên hành khiển tôn thần, bản thổ thần linh lý vực chính thần vị tiền.
Miếu nội tòng tự nhất thiết chư linh vị tiền
Phục vọng Đại Vương văn võ toàn tài, hiếu trung lưỡng tiện, sinh vi Trùng Hưng chi lương tướng, hoá tác Nam Việt chi phúc thần, trừ tai hoãn hoạn đại khai vũ lộ chi ân, trượng chính khu tà quảng bố nhân từ chi niệm. Phục nguyện Đại Vương cao minh chính trực, quảng đại thần thông, tỷ tín chủ thân cung khang thái, tứ thì vô họa hoạn chi ngu, gia thất bình an bát tiết hữu trinh tường chi triệu, gian tham bất chí bần gia canh nông đắc lợi, đạo tặc vô xâm điền xã lai vãng giai hoà. Thực lại.
Cẩn sớ
Thiên vận... niên... nguyệt... nhật
Tín chủ thành tâm cụ tấu.
- Dân gian phụng sự Trần triều Hưng Đạo Đại Vương tỏ rõ tấm lòng đền ơn đáp nghĩa đối với vị anh hùng dân tộc. Người đời còn muôn sự bất tử của Hưng Đạo Vương sẽ hiển linh giúp dân trong đời sống tâm linh. Hy vọng sức thần của đại vương sẽ gia ân, gia hộ giúp chúng dân đắc cầu sở nguyện, điều lành đem đến việc dữ xua tan, nên các gia đình gặp khó khăn khi nuôi con nhỏ, đã lập văn khoán nhờ đại vương bảo hộ và phù trì cho trẻ được mạnh khoẻ khang ninh, tính tình thông tuệ.
3.2 Văn tế Đền thờ Vua Lê
Duy Đại Nam quốc tế thứ Bính Dần niên chính nguyệt kiến việt sơ thập nhật sóc.
Hà Nam tỉnh Thanh Liêm huyện Hoà Ngãi tổng Bảo Thái xã, kỳ lão hương chức đồng xã đẳng, cần dĩ tam sinh chư quả phù lưu thanh chước, tựu vu từ tiền, cảm chiêu cào vu cao minh Đinh Tiên Hoàng thượng thánh đức quảng minh thông hoàng đế thần vị, Khâm văn thống vũ nhân đức anh triết tri nhuệ Lê Đại Hành hoàng đế thân vị, Trung tông hoàng hiển hiển ứng tá thánh hậu đức uy linh hoàng đế thần vị, Ngọc triều hoàng quang công hựu thánh uy linh hoàng đế thần vị. Viết hữu xuân sơ sinh nhật lễ tất cáo lễ dã.
Cung dy hoàng đế bệ hạ, sơn nhạc chung linh, hải hà tú khí, nhất kỳ chỉ trừ hung chi lữ sứ quân thập nhị tán khôi phi, tam xích bình Chiêm tặc chi qua thiên tử cửu trùng đăng bảo vị, kháng Tông công kim thạch hữu bi đề, tế dân đức miếu tề tồn trí lệ. Vạn niên tiêu tinh đẩu chi quang, thiên thu hưởng chưng thường chi mỹ.
Tư thích thiên khí huyên hoà, lễ trần kính tế cảm tương nhất điểm đan thành, phục nguyện cửu trùng phúc chỉ, công thương phấn phát ức vạn niên hưng thịnh chi cơ đồ, nông sỹ thuận hoà thiên bách thế báo ôn chi chí lự, sử bần gia đắc hưởng ư Nghiêu thiên, tích dã ấp trường ư Thuân địa.
Thực lại tứ thánh âm phù chi đại lực dã.
Kính cập Thiên Cương đại vương, Quang Minh đại vương tôn thần, Nhữ hoàng Đê công chúa tôn thần dữ Đinh Lê triều văn vũ bách quan tuỳ tòng bộ chúng.
Dịch nghĩa
Duy ngày 10 tháng giêng năm Bính Dần niên hiệu nước Đại Nam, kỳ lão hương chức và cả xã Bảo Thái tổng Hoà Ngãi huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam kính đem lễ thường tam sinh hoa quả trầu rượu tới đền thờ, xin kêu rõ cùng;
Tổ dương khai cơ sáng nghiệp nhân thánh anh võ cao minh Đinh Tiên Hoàng đại đế thần vị.
Khâm văn thông vũ nhân đức anh triết tri nhuệ Lê Đại hành hoàng đế thần vị.
Trung tông hoàng hiển ứng tá thánh hậu đức uy linh hoàng đế thần vị.
Ngoạ triều hoàng quang công hựu thánh uy linh hoàng đế thần vị.
Vì có lệ sinh nhật lúc đầu xuân nên xin cáo lễ.
Kính trông hoàng đế bệ hạ, khí thiêng nơi rừng núi, vẻ đẹp chôn biển sông. Cờ trỏ thẳng mười hai sứ quân tan tành như cát bụi, kiếm xốc tới ngôi chín bệ giặc Chiêm đâu dám hung hăng. Đánh Tông đá vàng còn để chữ nêu bia, giúp dân công đức vẫn huyền lâu ở miếu. Muôn năm ánh sáng hông vòi coi như tinh đẩu, ngàn thuở tôn thờ cầu đảo đẹp nếp chưng thường.
Nay gặp tiết hời ấm áp, lễ mọn đặt bày. Dám đem tấc dạ tỏ tinh thành, chờ đợi chín hùng ban phúc lộc. Nghề thợ nghề buôn bán phát đạt nền nếp dài lâu, đi cày đi học thuận hoà ấm no vui vẻ. Cho nhà nghèo được ở dưới hời Nghiêu phẳng lặng, để làng quê yên tại nơi đất Thuấn hoà bình.
Thực cây nhờ các vị thánh sức lớn ngầm giúp vậy. Kính mời Thiên Cương đại vương, Quang Minh đại vương tôn thần, Nhữ hoàng Đê tôn thần cùng văn vũ bách quan tuỳ tòng bộ chúng dưới triều Đinh Lê.
(Vái bốn vái)
Ngoài các bài khấn lễ đức Thánh Trần như đã nêu, còn có các văn khấn phổ thông khác , lời lẽ mộc mạc, đậm tính dân gian hơn. Xin giới thiệu thêm một bài văn khấn cầu tài, cầu lộc và sự bình an:
3.3 Văn khấn Đức Thánh Trần
Kính lạy đức Trần triều hiển thánh Nhân Vũ Hưng Đạo đại vương, Thái sư thượng phụ Thượng quốc công chí trung đại nghĩa, dực bảo trung hưng thượng đẳng thần vị.
Kính lạy Hưng Đạo đại vương phu nhân, hiệu Thiên Thành Công chúa, truy phong Nguyên Từ Quốc mẫu, sắc phong Thiên Uy Thái trưởng công chúa.
Kính lạy:
- Trần triều Tứ Vị Vương tử thần vị.
- Trần triều Nhị vị Vương cô thần vị.
- Trần triều Tứ vị nhất phẩm phu nhân thần vị.
- Trần triều Vương tế Điện suý thượng tướng quân, Quan nội hầu Phạm tôn thần thần vị.
Tín chủ con là ......................................................................
Ngụ tại....................................................................................
Nhất tâm bái đảo, một dạ kêu cầu
Kính mong chư vị, gia ân làm phúc, phù hộ độ trì cho toàn gia chúng con:
Đầu năm chí giữa, nửa năm chí cuối,
Tai qua nạn khỏi, vạn sự hanh thông.
Điều lành mang đến, việc giữ mang đi,
Cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc
Thêm người thêm của, vật thịnh nhân an
Vãng cát cư an, mọi điều như ý!
Tín chủ đồng gia chúng con cúi đầu kính lễ chư vị nhất sự nhất xá, vạn sự vạn xá.
Thấu tỏ tấc lòng, đồng lai chứng giám
Cẩn tấu.
3.4 Văn khấn tại Đền Bà Chúa Kho
Đền Bà Chúa Kho là nơi thờ bà chúa coi kho, ngoài ra còn thờ các vị Thánh Mẫu, Ngũ vị quan lớn, các vị Quan hoàng, Đương Cảnh Thành Hoàng... Do vậy nơi đây có nhiều ban thờ, vừa là đền vừa mang tính chất phủ. Dân gian về đây dâng hương cầu xin mọi sự bình an, nhất là cầu được phát tài phát lộc, buôn may bán đắt và khấn bài khấn dân gian dưới đây:
Hôm nay là ngày... tháng... năm ....................................
Tín chủ con là... đồng gia ngụ tại... thôn... xã (phường)... huyện (thị)... tỉnh (thành phố) Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Kính lạy:Tam giới Thánh Chúa Tam phủ công đồng
Cúi lạy: Tam toà Thánh mẫu, Tứ phủ Chầu Bà,
Ngũ vị Thánh quan, Tả hữu quan Hoàng.
Nhị vị Thánh Cô, bà chúa Sơn Trang cùng
Thập nhị Tiên nương
Cúi lạy:
- Quan đương niên Hành khiển.
- Đức đại vương Thành Hoàng bản cảnh
- Ngũ hổ thần tướng, Thanh xà, Bạch xà thần linh
Kính lạy đức Chúa Kho Thánh Mẫu hiển hóa anh linh cảm thông các sự. Chấp lễ, chấp bái, phù hộ độ trì, chứng minh cho tâm thành của gia chủ chúng con là... ngụ tại..
Trước Thánh vị con xin tu khiết kim ngân, hương hoa lễ vật, chí thiết nhất tâm, lòng thành dâng lễ.
Mong được sám hối, cầu xin ban ân
Gia quyến bình an, sở cầu đắc nguyện
Cầu lộc đắc lộc, cầu tài đắc tài,
Mọi sự đều hanh xương
Toàn gia khang thái
Chúng con xin khấu đầu bái lễ
Trước chư vị và Thánh Mẫu Chúa Kho
Cho chúng con được đắc cầu như ý.
Cẩn tấu.
(Vái bốn vái)
3.5 Văn khấn Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Trên lãnh thổ Việt Nam có hàng ngàn đền, phủ thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Đặc biệt là nơi giáng sinh của mẫu như Quảng Nạp (Ý Yên), Phủ Giày (Vụ Bản Nam Định) là nơi giáng sinh lần I, lần II. Kẻ sỏi, hay Tây Mỗ (Thanh Nghệ) nơi hạ trần lần III cùng các nơi khác mà truyền thuyết cho có sự liên quan lúc sinh thời của Mẫu như đền Tiên (Lạng Sơn), Tây Hồ (Hà Nội), đền Sòng, phố Cát (Thanh Hoá), phủ Đồi (Ninh Bình). Thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh thường phối thờ với các mẫu đệ Nhị, đệ Tam, các vị quan lớn, Quan hoàng, Cô, Cậu... Kể cả Trần triều Hưng Đạo đại vương, nhị vị Vương Cô... nên phủ, đền thờ Mẫu là sự phối thờ, sự dung hợp rộng rãi xung quanh vị Thánh Mẫu Liễu Hạnh, một trong tứ bất tử Việt Nam. Do vậy phần văn khấn rất phong phú, phần hát chầu trong các giá đồng lại càng súc tích, càng gây cảm hứng vui nhộn, nhảy nhót như đàn con trẻ về gặp gỡ người thân.
Trước hết xin giới thiệu một số bài văn tế, văn khấn Thánh Mẫu Liễu Hạnh như:
- Tứ thời tế Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
- Hữu Khánh hạ tế Thánh Mẫu văn
- Lễ Thánh Mẫu cầu tự sớ
- Mãi đồng tử thông dụng khoán.
Các bài văn này kèm theo chữ Hán, có thể photo, làm bài văn khấn, rồi hoá sau khi lễ. Đơn cử một bài văn khấn Lễ Thánh Mẫu cầu tự như sau:
Lễ Thánh Mẫu cầu tự sớ
Phục dĩ
Khôn hậu trùng trùng đại khải đốc sinh chi cát triệu, lê nguyên khẩn khẩn ngưỡng kỳ hậu ấm chi miên trường. Vạn bái chí thành, nhất tâm kiều vọng.
Viên hữu Đại Nam quốc tỉnh huyện xã y vu Hoa Lâm kinh từ cư, phụng Phật thánh cúng dàng xuân thiên tiến lễ khất cầu sinh đắc nhi nữ kế thế sự. Kim thần tín chủ Lương Xuân Huy, thê Trần Thị Phương hợp đồng gia đẳng tức nhật ngưỡng can tuệ nhãn, phủ giám phàm tình, ngôn niệm thần phu thê đẳng, loan hoàng nhã hợp, cầm sắt hòa hài, thần hôn mỗi vịnh quan thi vị kiến cát tường chân mộng, niên nguyệt thường ca lần chỉ thiểu mộng cảnh thụy lai trưng. Niệm niệm nan thân tình chỉ, tâm tậm nam thức thâu kỳ, hạnh phùng tiết đổ mộ xuân, khánh hạ nhật thần thích trị, cẩn cụ vi thành thứ phẩm , phu thê, đồng tựu trần từ. Ngưỡng vọng uy quang thiếp hợp, cung kỳ đại huệ quân triêm .
Phục vọng thiên tiên lân mẫu giáng cát tường quế thụ khai hoa, địa tiện nhân từ tái hậu đức đào yêu kết quả, sơn gian thánh chủ bố âm công sâm tú hòe chi, thuỷ phủ tiên nương sái pháp vũ tẩm triêm lan diệp, tam vị đức ông hiển uy linh, tứ phủ chư nhân thi huệ trạch, công đồng liệt vị bộ chúng tiên phi, công tố bần gia hàm tư thảo xá.
Tiền chúc thánh cung vạn tuế, hậu kỳ kế tự bách niên, toàn lai hồng ân, thực mông đại khánh.
Đãn thần hạ tình bất thăng chiêm thiên ngưỡng thánh bình dinh chi chí
Cẩn sớ.
Thiên vận... niên... nguyệt... nhật
Đệ tử thành tâm cụ tấu.
Như vậy khi nói đến nghi lễ thờ cúng truyền thống của người Việt là nói tới việc nghĩa vốn có từ lâu đời. Vì lễ là từ nghĩa mà ra, không có nghĩa thì sao có lễ, như cổ nhân đã dạy:
“Lễ giả nghĩa chi thực dã ”
Do vậy người ta thường nói lễ - nghĩa. Người có nghĩa là người thiện, người tốt đẹp. Chữ nghĩa có trong phạm trù triế t học phương Đông: “Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. Nghi là hình thức bày tỏ lòng tôn kính trong khi cúng tế hay trong giao tiếp. Vì thế, nghi lễ là hình thức thể hiện việc nghĩa của người đối với người, người đối với Thiên nhiên, siêu nhiên nào đó đã có ân sâu, nghĩa nặng sinh thành, dưỡng dục, tạo dựng nên làng xã, giang sơn cho một bộ tộc, dân tộc nào đó trường tồn. Vậy nghi lễ thờ cúng truyền thông là việc làm m à ông cha ta đã làm để giữ gìn bản chất tốt đẹp của Tổ tiên, làng xã cũng như dân tộc.
Cuốn sách: “Nghi lễ thờ cúng truyền thống của người Việt - tại nhà và các đình, chùa, đền, miếu, phủ” cũng là tập hợp những sưu tầm, đúc kết lại những điều ông cha đã viết, ông cha đã làm trong hoàn cảnh cuộc sống trăm nghìn nỗi khó khăn, không biết bấu víu vào đâu? Trông cậy vào ai? Tuy nhiên, với thời đại mới, cũng không nên quá câu nệ bởi các “luật” tục liên quan đến nghi lễ. Nhất là việc ma chay. Trong thời đại ngày nay việc giữ gìn cổ lệ theo tư tưởng triết học phương Đông cũng có sự thay đổi. Thay đổi để phù hợp trên cơ sở giữ gìn bản sắc, tránh những mê muội, những quan điểm bảo thủ... Có vậy nghi lễ mới trở thành văn hoá. Văn hoá mang tâm hồn Việt Nam. Một tâm hồn cương nghị, có trí tuệ lại từ bi, nhân ái.
Nghi lễ thờ cúng truyền thống của người Việt - tại nhà và các đình, chùa, đền, miếu, phủ còn liên quan đến hội làng. Nó là một phần hoạt động của hội. Không có tế lễ thì hội trở nên khồ khan, tẻ nhạt và mất đi ý nghĩa tâm linh trong cuộc sống. Nhưng lễ hội thời đại mới biết vận dụng các chương trình thể thao, văn nghệ theo sở thích của lớp trẻ thì ý nghĩa càng được nâng lên, trở thành đời sống tinh thần của quảng đại quần chúng. Vậy lễ và hội phải có sự kết hợp hài hoà như hai chân của một con người vậy!
Viết bình luận