Tín ngưỡng thờ cúng tại Đình
Mục lục nội dung
1. Nguồn gốc sự hình thành tín ngưỡng thờ cúng tại Đình
Thành Hoàng làng là vị Thần ngự trị trong lòng dân từ nhiều thế kỷ và làng nào cũng có đình thờ Thành Hoàng. Từ cõi tục cuộc sống đầy gian lao vất vả, lại gặp muôn vàn khó khăn bởi tại trời, vạ người, khiến người dân chỉ biết trông cậy vào sự âm phù của thần linh và nhất là vị Thần mệnh danh là Thành Hoàng làng (bảo vệ cho làng). Chính vì vậy nên việc thờ Thành Hoàng làng trở thành tục lệ của mọi cư dân trong Nam, ngoài Bắc, của các vùng quê cựu hay các miền quê mới khai hoang lấn biển, cải tạo rừng hoang. Và việc tế lễ Xuân Thu vẫn được cộng đồng tâm niệm thờ cúng, cũng như mở hội làng thể hiện sự thành tâm của cộng đồng đối với Thần, Thánh, đồng thời là cơ hội gặp mặt bà con họ hàng, do vậy mái đình và con người có sự gắn bó;
“Qua đình ngả nón trông đình,
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu ”.
Nhưng đình cũng là nơi dừng chân của vua quan cũng như thứ dân:
“Trường đình mười dặm liễu xanh rì,
Hương ấm đài lan dễ mấy khi...”
Đình làng, nhất là đình làng ở miền Bắc, là kho tàng hết sức phong phú của điêu khắc Việt Nam trong lịch sử. Điêu khắc cũng tồn tại ở chùa, đền, các kiến trúc tôn giáo khác, nhưng không ở đâu nó được biểu hiện hết mình như ở Đình. Điêu khắc ở đình làng không những là nguồn tài liệu để nghiên cứu lịch sử Mỹ thuật Việt Nam, mà còn là nguồn tài liệu để nghiên cứu đời sống ngày thường cũng như tâm hồn của người nông dân Việt Nam.
Nói điêu khắc đình làng cũng là nói đến nghệ thuật trang trí đình làng. Điêu khắc ở đây là điêu khắc trang trí. Người thợ làm đình chẳng những thành thạo trong việc dựng đình mà còn biết tô điểm cho ngôi đình thêm đẹp. Điêu khắc ở đây do đó gắn liền với kiến trúc. Hầu như trên các thành phần của kiến trúc đình làng đều được các nghệ nhân xưa dùng bàn tay điêu luyện của mình chạm khắc thành những hình mẫu có giá trị nghệ thuật cao, thu hút sự chú ý của mọi người lúc ghé thăm đình. Ngay những ngôi đình từ thế kỷ XVI cho đến thế kỷ XVIII, điêu khắc trang trí đình làng mang đậm tính chất nghệ thuật dân gian. Những nhà điêu khắc vô danh xuất thân từ nông dân đã đưa vào đình làng những hình ảnh gần gũi với cuộc sống thực, hay là cả với giấc mơ của họ, với một phong cách hết sức độc đáo và một tâm hồn hết sức sôi nổi.
Ở các ngôi đình miền Trung, điêu khắc trang trí không phong phú như các ngôi đình miền Bắc. Có người đã tổng kết về trang trí trên gỗ ở các ngôi đình vùng Thừa Thiên - Huế: “Trong kết cấu gỗ của nội thất tùy quan niệm thẩm mỹ mà dân làng có thể chạm trổ chi tiết đầu rồng, đuôi rồng ở đầu đuôi kèo, chạm hoa và đường chỉ xuyên tâm ở thanh xà và đòn tay. Việc chạm trổ nhiều, thích ứng với các đình có kết cấu vừa phải, thanh tú. Chạm trổ ít, thích ứng với các đình có kết cấu gỗ to lớn, đồ sộ...”. Đây cũng là tính chất trang trí nói chung của ngôi đình miền Trung. Nhưng nếu điêu khắc trang trí trên gỗ có giảm sút thì ngược lại, ở các ngôi đình miền Trung lại phát triển hình thức trang trí bằng cách đắp nổi vôi vữa và gắn các mảnh sành sứ lên phần ngoài của kiến trúc. Thường thì ở nóc mái và các đường gờ mái, người ta trang trí hình tứ linh, ở hai đầu hồi thường được trang trí hình dơi xòe cánh bằng sành sứ để cầu phúc. Đây là cách trang trí phổ biến đời Nguyễn.
Đình miền Nam cũng có lối trang trí đắp nổi mặt ngoài gần giống đình miền Trung, nhưng điêu khắc trang trí trên gỗ thì cũng có điểm khác biệt. Phần lớn chạm khắc gỗ này đã có từ giữa thế kỷ XIX. Bốn cột đình thường được trang trí hình rồng, nên gọi là ‘Long trụ”. Nhiều nơi, long trụ chạm rời bên ngoài ốp vào, nhưng cũng có nơi long trụ được trổ một khối nguyên... Ngoài những cột long trụ đình Nam Bộ thường có các bao lam trước điện thờ, như cửa võng trong các đình miền Bắc, được chạm trổ rất tinh vi, đề tài thường là tứ linh, cá hóa long (rồng), hổ... Như vậy, điêu khắc trang trí, cùng với kiến trúc đã làm cho đình có những nét riêng trên chiều dài của đất nước.
Ở Việt Nam cũng dựng đình để các vua chúa “vi hành” dừng chân, nên đại tự đình thường ghi: “Thánh cung vạn tuế ”. Đình còn là nơi dùng để hội họp (việc làng), nơi đón tiếp quan trên, nơi tập trung đóng góp sưu thuế, hay hội hè các tiết Xuân Thu... Nhưng sau này người ta còn thờ Thành Hoàng làng, thờ Thần, thờ cả Mẫu ở gia đình, thành ra ngôi đình ngoài ý nghĩa trung tâm sinh hoạt chính trị - xã hội - văn hoá, còn là nơi gắn với đời sống tâm linh của cộng đồng làng xã. Nhưng phần lớn đình làng là nơi thờ chung, mang tính hội đồng, cộng đồng. Nghĩa là trong các xã có các đền thờ một sô" vị thần thì các vị Thần ở các đền lẻ tẻ đó, được mời về thờ chung tại đình. Do vậy ở đình thường thờ Thần bằng duệ hiệu, bát hương đặt trước ngai, hay khám thờ. Sau này một số đình đã tạc tượng thờ cho thêm phần trang trọng.
Đình vốn là nơi thờ Thành Hoàng làng. Chữ “thành ” ở đây là thành luỹ, “hoàng” là con hào bên trong (trong hào ngoài luỹ bảo vệ cho làng). Vậy Thành Hoàng làng là phúc Thần của làng, giáng phúc, gia ân cho cộng đồng, lại ngăn ngừa tai hoạ cho làng. Nhưng ai phạm lễ làng cũng sẽ bị Thần trừng phạt. Và vì là nơi thờ cộng đồng nên đình có thể thờ một vị, hoặc năm, bảy vị.
Những ngôi đình cổ thường kiến trúc kiểu mái cong, bốn mái. công trình khá đồ sộ, hoặc năm, bảy gian, có khi chín gian. Trong đình còn có hệ thống sàn cầu ở các gian bên giáp hồi để quan chức, kỳ hào, bô lão và đinh các giáp ngồi dự việc làng, hay ăn cỗ nhất, cỗ nhì trong các dịp yến lão, tế Thần...
Xưa kia ngôi đình chỉ có một tòa để trông cho gió lùa, không xây tường bao quanh. Sau do yêu cầu thờ Thành Hoàng làng nên xây kín xung quanh cho phải phép. Gian giữa toà tiền đường (có nơi gọi đại bái) có một hương án bày biện bát hương, nến thờ, đại tự, câu đôi... Đây là ban công đồng và là nơi cúng lễ chính, còn cung trong đưỢc gọi là chính cung, chính tẩm hay hậu cung là nơi đặt tượng Thần hoặc long ngai, long bào đề duệ hiệu Thần. Cung này ít khi vào ra, khách hành hương có thể vào châm hương, vái lạy, nhưng không kéo dài thời gian, không thể kéo đông người vào gây ồn ào, làm giảm sự thâm nghiêm nơi Thần ngự.
Trước đây, ngay cụ từ trông nom hương khói cũng không được tự tiện vào ra. Mỗi khi vào đèn nhang phải khăn áo chỉnh tề, phải dùng khăn bịt miệng để tránh sự uế tạp. Ngày nay, không phải câu nệ như vậy, nhưng ai có việc vào kêu cầu cũng phải chỉnh tề, bỏ guốc dép bên ngoài thể hiện sự kính cẩn trong việc lễ. Trong năm, các ngày tuần tiết, các cụ ông thường ra đình làm lễ, hoặc làm phân sự mà làng giao phó. Ngày nay không còn quan điểm phong kiến: “trọng nam khinh nữ ” nên các bà, các chị đều được lên đình lễ Thánh. Do vậy ngôi đình trở thành trung tâm tín ngưỡng của toàn dân.
Nếu số lượng Thần, Thánh thờ tại đình có nhiều thì các bậc chức sắc, cao niên sẽ căn cứ trên danh vọng, đức độ của Thần để suy tôn xem ai là Thánh Cả, Thánh Hai, Thánh Ba để chọn ngày vào đám... Do vậy, mà làng phải tổ chức một hoặc hai đợt hội làng. Chứ nếu dựa vào các ngày sinh, hoá của Thần, Thánh để mở hội thì sẽ rất vất vả.
Việc mở hội làng, dân gian thường gọi “Vào đám ”, đều phải chuẩn bị rất chu đáo. Làng phải phân công các giáp, các đinh chuẩn bị thịt, gạo, cau, gà... sao cho lợn béo, gà đẹp, gạo ngon để làm lễ. Các trò chơi, hội tế, hội cờ, phu kiệu phải được chỉ định, chọn người sao cho đạt tiêu chuẩn về phúc, lộc, thọ mà làng đề ra và khi vào việc phải chay tịnh, sạch sẽ... Lễ vật như trâu, lợn, bánh dày... mà làng phân cho các giáp đều có chấm giải, nên giáp phải đầu tư vật chất, giám sát việc chăn nuôi lợn, gà hoặc cấy lúa lễ... sao cho hợp vệ sinh, trọng lượng, chất lượng tốt để cố đưa phần thắng về cho giáp. Việc tế lễ là hệ trọng lên ai được vào đội tế thì phải lo tập dượt chu đáo, nếu khi vào việc mắc sai sót sẽ bị phạt...
Đối với các hộ hoặc cá nhân thì việc sắm lễ, cúng như cầu cúng sẽ được tuỳ nghi. Tất nhiên phải có sự giúp đỡ của ban quản lý hay cụ từ, để việc dâng lễ, có thể khấn cầu hộ (nếu gia chủ yêu cầu) được thấu đáo hơn.
Xin đơn cử bài văn khấn tại đình như sau:
2. Văn tế Thành Hoàng ở Đình
Duy Việt Nam quốc... tỉnh... huyện... xã... thôn ................
Tuế thứ... niên... nguyệt... nhật..........................................
Hội chủ... Kỳ lão... cập thôn nội đại tiểu viễn cận, đồng gia quyến đẳng.
Cẩn dĩ phù lưu thanh chước... đẳng vật tựu tại từ tiền. Cảm chiêu cốc vu:
- Hùng triều công thần, tế thế an dân, Trần Quốc đại vương Tôn thần vị tiền.
- Trưng triều công thần, bảo quốc hộ dân, trừ tai hãn hoạn, Sơn Tinh công chúa Tôn thần vị tiền.
- Trần triều Điện suý phu nhân, cứu dân lợi vật, tế khổn phò nguy, Thuỷ Tinh công chúa Tôn thần vị tiền.
- Kính cập tiền triều, khai cương lập ấp, giáo dân di phúc, thịnh đức đại công, liệt vị chư tộc Tổ tiên Thần vị tiền.
Cung duy liệt tôn, nài văn nãi vũ, thị Thánh thị Thần. Trục Bắc khấu dĩ an bang, công đức trường lưu thanh sử tại.
Tảo Nam phương chư nghịch đẳng huân danh vĩnh tại cố hương dân.
Hùng triều dĩ chân phương danh,
Động xứ hựu lưu từ sở
Trừ Hán tặc thiên phương công mộc ân ba,
Chiêu xã ân nhất xứ quần mông giáo dưỡng,
Chí Trần đại vị nghĩa tráng đinh tòng thảo tặc.
Kính súy tướng đồng dân tạo lập miếu (đình) tri ân
Tam vị anh linh thế thế tự tiền mông đức trạch,
Tứ thời hương hỏa nhân dân tòng cổ hữu linh từ.
Tư nhân tiền tệ lỵ nhật lai lâm.
Tuy nhiên lễ vi thực tại tâm trung thâm vọng trọng,
Chỉ hữu thành ý, cung kỳ tòng thử đắc khang ninh.
Mãi mại hanh thông, nhân tài hoạch phát
Canh nông đắc vận, hòa cốc phong thu
Lão giả khang, thiếu giả vượng niên niên hạnh lại khuông phù.
Vãng giả cát cư giả an tuế tuế đồng tư hộ hựu
Thực lại liệt vị Thánh Thần khuông phù chi lực dã
Dĩ văn Cẩn cáo!
Dịch nghĩa
Duy thôn... xã... huyện... tỉnh... nước Việt Nam
Tuế thứ (ất Tỵ) niên... nguyệt... n h ậ t..........
Hội chủ là... kỳ lão là... và các gia quyến trong thôn gần xa lớn nhỏ.
Kính đem rượu tốt trầu thơm... các thứ dâng trước ngôi cao, mạo muội kính lạy:
- Công thần triều Hùng, cứu đời yên dân Trần Quốc đại vương Tôn thần vị tiền.
- Trưng triều công thần, giữ nước giúp dân, ngăn hoạ trừ tai Sơn Tinh công chúa Tôn thần vị tiền.
- Trần triều Điện suý phu nhân, cứu dân lợi vật, giải khôn trừ nguy Thuỷ tinh công chúa Tôn thần vị tiền.
Và kính mời các vị triều trước mở mang bờ cõi, khai dựng làng thôn, dạy dân để phúc, đức lớn công to, chư vị Tổ tiên các họ Thần vị tiền.
Lại kính mời các ngôi Tôn thần bản thổ, quan liêu bọ chúng trong đình.
Kính trông chư vị Tôn thần:
Tài gồm văn, võ, kiêm cả Thánh thần
Đuổi giặc Bắc để yên nhà, công đức dài lâu ghi sử đỏ.
Trừ giặc Nam cướp phá, danh thơm còn mãi với dân thôn.
Triều Hùng đã nổi tiếng thơm,
Xứ Động Linh còn lưu đền sở.
Dẹp giặc Hán, nơi nơi tắm gội sóng ân,
Chiêu dân mở xa một vùng nhờ công dạy dỗ.
Đến thời Trần, vì nghĩa trai làng đi dẹp giặc Trọng tướng tài, dân thôn lập miếu phụng thờ.
Ba vị thiêng liêng, sau trước vẫn ơn nhờ phù hộ,
Bốn mùa hương khói, người người theo cũ kính cẩn đều thiêng.
Nav theo tiền lệ,
Ngày kỵ đến kỳ (hoặc ngày khánh hạ, ngày sinh...)
Tuy nhiên lễ bạc, nhưng mọi người nhất dạ tâm thành
Ý nguyện thật tình cầu cho sự bình yên vô sự.
Buôn bán hanh thông, của, người tươi tốt,
Cấy cày gặp vận, thóc lúa đầy kho.
Già khoẻ vui, trẻ thịnh vượng năm năm nhờ sự chở che,
Đi gặp may, ở yên hàn mãi mãi nhờ công giúp đỡ.
Muôn trông sức lực phò giúp của chư vị Thánh - Thần vậy!
Kính cẩn dâng lời!
Những lễ tiết trong năm như tết Nguyên đán. rằm tháng Giêng, Tết Đoan Ngọ, Tết Trung Nguyên, rằm tháng Tám, Lễ Trùng Thập (10 - 10)... làng thường tổ chức lễ tại đình. Trong các ngày này, ai có lòng đều có thể sửa lễ Thành Hoàng. Một số người có việc đột xuất cần kêu cầu Thành Hoàng gia ân, đều có thể sửa lễ tại đình.
3. Trình tự khi đến lễ tại Đình
- Lễ vật phải được trình bày trên khay, trên đĩa và khi dâng lễ thì phải dâng từ chính crmg ra ban công đồng và các ban tả hữu (vì Thành Hoàng Ngự tại chính cimg).
- Dâng lễ xong thì dâng hương, cũng theo thứ tự từ trong ra ngoài và số nén hương cũng thắp theo số lẻ 1, 3 hay 5 nén. Trước khi lễ thường có thỉnh ba hồi chuông. Nhưng nếu vì khách lễ đông thì không phải câu nệ việc thỉnh chuông. Lễ Thần, Thánh thường vái 4 vái rồi mới kêu cầu bằng miệng, hoặc bằng sớ văn.
- Khi khấn tấu xong thì đợi cháy gần hết tuần nhang mới hạ lễ. Nếu có tiền, vàng sẽ vái xin đem ra nơi quy định để hoá và hoá theo từng lễ, không nên để gộp rồi ấn vào lò hoá.
- Sau khi hoá vàng sẽ hạ lễ và nên biếu lộc cho cụ từ đình. Đây cũng vừa là hình thức tán lộc, vừa theo phép lịch sự.
4. Văn khấn chung
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - Tự do - hạnh phúc
Hôm nay là ngày... tháng... năm ...................................
Tín chủ chúng con là... (vợ hay chồng)..............................................
Cùng nam tử... nữ tử ............................................................
Hiện ở tại: thôn... xã (phường)... huyện (thị)... thành phố ... tỉnh ........
Nhân ngày... tín chủ thành tâm, xin dâng lễ bạc trước ban thờ chư vị:
Kính lạy đức...... (đọc duệ hiệu các vị)
Mong chư vị nhất sự nhất xá, vạn sự cho qua.
Chấp lễ chấp bái, chấp kêu chấp cầu
Rộng lượng gia ân, cho gia quyến tín chủ:
Đầu năm chí giữa, nửa năm chí cuối
Điều lành đem đến, việc dữ bay đi
Cầu tài được tài, cầu lộc đắc lộc
Vạn sự hanh thông, nhân khang vật thịnh.
Cho tín chủ chúng con được sang bằng người, tươi bằng bạn.
Cho gia quyến chúng con sở cầu đắc nguyện.
Cúi trông sự âm phù của Thần vậy!
Cẩn cáo.
Trong các ngày đại lễ, tại đình thường có tế lễ. Việc tế phải trang nghiêm, đúng luật. Xưa có quy định các “ván” tế theo nghi thức cửu khúc, lục khúc hay tam hớn. Thực hiện các “ván” tế thì phải mất nhiều thời gian luyện tập mới có thể đúng luật tế.
Hiện nay việc tế thần đã phục hồi, nhưng cũng bớt đi những việc cồng kềnh để dễ thực thi.
Nghi lễ thờ cúng tại Đình
- Chuẩn bị một hương án làm lễ công đồng, kê ở giữa gian tiền đường (Nếu chật có thể kê ngoài hiên hoặc ngoài sân nhưng phải ở chính diện).
- Trên hương án đặt bát hương lớn, bộ tam sự, đài rượu, chén thờ, bảng chúc văn.
- Hai bên thường kê quán tẩy, đẳng tế (trên đặt các bộ mịch, đài thờ, nến thờ...)
- Chuẩn bị ba cái chiếu:
+ Chiếu trên là chỗ dâng rượu và đọc chúc.
+ Chiếu giữa là nơi ẩm phúc (hưởng lộc của thần như trầu, rượu)
+ Chiếu dưới là nơi mới tới lạy, đứng, trở lại vị trí.
- Bồi tế thì sắp hàng hai bên phía sau.
Sau khi đèn hương tinh tươm, cho đánh 3 hồi trống, người xướng tế đứng ở phía Đông (Đông xướng) xướng:
- Khởi chinh cổ!
Chấp sự đi vào nổi 3 hồi 3 tiếng chiêng, trống.
- Nhạc sinh tựu vị!
Nhạc lưu thuỷ nổi lên.
- Củ soát tế vật: Xem xét đồ tết lễ, chấp sự và một người cầm đèn (hoặc nến) theo tế quan vào cung trong xem xét lễ vật (vào bên phải ra bên trái).
- ế mao huyết! Nếu giết trâu, bò, lợn, dê thì một người lấy đĩa đựng một ít lông và ít máu đem ra ngoài chôn.
- Chấp sự giả các tư kỳ sự! Các vị chấp sự được phân công việc gì thì vào việc ấy.
- Thế quan dữ chấp sự các nghệ quán tẩy sở!
Thế quan cùng chấp nhận sự đến quán tẩy rửa tay
- Quán tẩy thuế cân! Lấy khăn tay nơi quán tẩy lau tay.
- Bồi tế quan tựu vị! Bồi tế đứng vào hàng chiếu quy định.
- Thế quan tựu vị! Chủ tế vào chiếu tế
- Thượng hương! Chấp sự mang hương đưa cho chủ tế. Chủ tế cầm hương vái, rồi lại đưa cho chấp sự cắm lên bát hương.
(Nếu dùng lò trầm thì phải lót tay vái xong đặt lên hương án).
- Nghinh thần cúc cung bái! Tế chủ và bồi tế đứng lên, lùi xuống một chút, rồi cùng sụp lạy (lạy luôn 4 lạy)
- Hưng! Lạy xong đứng cả dậy
Bình thân! Trở về vị ư í cũ đứng cho nghiêm.
- Hành sớ hiến lễ! Chuẩn bị lễ lần đầu (dâng rượu)
- Nghệ tửu tôn sở, tư tôn giả cử mịch!
Tế quan đi ra chỗ để rượu, chấp sự mở miếng vải đỏ phủ mịch ra, trên mịch để chén (3 chiếc)
- Chúc tửu! Rót rượu
- Nghệ đại vương tiền quỵ!
Tế chủ ở chiếu trên đến gần bàn quỳ xuống, các vị sau cũng tiếp tục quỳ theo
- Tiến tước! Một chấp sự dâng đài rượu cho chủ tế. Chủ tế nâng đài rượu vái rồi đưa trả lại cho chấp sự.
- Hiến tước! Chấp sự nâng đài rượu cao (ngang tầm mặt) đi vào nội điện, đặt điện nơi ban chính điện rồi trở ra (có tài liệu nói cả chủ tế cùng vào)
- Phủ phục, hưng, bình thân!
Tất cả về vị trí cũ phủ phục rồi đứng lên.
- Phục vị! Trở về vị trí cũ.
Đọc chúc! Hai chấp sự vào trong cung đưa bản văn ra, rồi cùng tế chủ trên chiếu trên.
- Giai quỵ! Tất cả mọi người theo chủ tế đều quỳ.
- Chuyển chúc! Người cầm chúc đưa cho chủ tế, chủ tế bưng chúc vái một vái rồi đưa cho người đọc chúc.
- Đọc chúc! Người thông thạo, có giọng hay đọc chúc văn.
- Phủ phục, hưng, bái! Đọc xong, tế chủ và hai người đều lạy hai lạy.
- Hưng, bình thân, phục vị! Đứng lên, về vị trí cũ
+ Hành á hiến lễ! Làm lễ dâng thần lần hai cũng như thủ tục sơ hiến lễ.
+ Hành chung hiến lễ! Làm lễ lần thứ ba (thủ tục như á hiến lễ)
- ẩm phúc! Chấp sự (hai người) vào trong đưa chút lộc ra (gồm rượu và trầu)
- Nghệ ẩm phúc vị! Chủ tế bưng lấy chén rượu, vái, lấy tay che miệng, uống một hơi cho hết.
- Thụ tộ! Chủ tế cầm khay trầu vái, rồi ăn một miếng sau đó vái hai vái rồi lui ra chiếu ngoài, lại đưa trầu cho mọi người cùng ăn tại chỗ. Ăn xong nhổ vào ống nhổ nước trầu.
- Phủ phục, hưng, bái! xong sụp lạy, đứng lên, lại sụp lạy... hai lạy.
- Hưng, bình phục, phục vị! Đứng lên, về vị trí cũ.
- Phần chúc! Chúc nhân cử người đem chúc ra ngoài hoá. Cũng có nơi chúc tại chỗ (hoá trên tay).
- Lễ tất! Tế xong. Trong khi tế, nhạc sinh đều cử và điểm chiêng, trống cho thêm phần trang trọng.
Khi hô lễ tất, thì khách hành hương, dân làng tiếp tục vào dâng lễ, vái tuỳ nghi.
Trên đây chỉ là nghi thức tế thần đơn giản, song cũng phải tập sao cho thống nhất cách đi, cũng như động tác phục quy, hưng, bái.
Riêng nội dung bản chúc văn, ngoài việc sở nguyện cầu Thần của nhân dân, có nơi còn tán dương công đức của Thần, Thánh. Cũng có nơi nhân buổi tế này người ta còn đan xen hát ca ngợi công đức bằng các làn điệu hát của đình, hát chầu văn... Và nếu phần tế có thêm các khúc hát của đình làm tăng thêm ý nghĩa và trở thành một sinh hoạt văn hóa sinh động.
Viết bình luận