Nguồn gốc tín ngưỡng thờ Mẫu

Nho giáo của Khổng Tử, đạo giáo của Lão Tử vốn từ Trung Hoa cổ đại, cùng với Phật giáo do Siddhartha họ Gotama, thuộc dòng Sakya từ ấn Độ truyền vào Việt Nam từ rất sớm, tổn tại song song với nhau, trở thành những yếu tố văn hóa không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Việt.

Nguồn gốc tín ngưỡng thờ mẫu

Ba tôn giáo này hòa hợp với nhau, chấp nhận nhau, không hề xảy ra bất kỳ cuộc mâu thuẫn nào. Điều đó được gọi là “Tam giáo đồng nguyên" nghĩa là ba tôn giáo chung một nguồn, hoặc “Tam giáo đồng quy" nghĩa là ba tôn giáo tụ về một điểm, dạy người ta tìm đến chân, thiện, mỹ, từ bỏ tham, sân si, rèn luyện phẩm hạnh nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

Thời Lý, Trần nhà vua tổ chức thi Tam Giáo để chọn người giỏi trong cả ba đạo vào triều đình, làm công việc ngoại giao, nội trị, khai thác tinh hoa của các tôn giáo thành động lực thúc đẩy xã hội tiến lên.

Đạo Mẫu có nguồn gốc từ đâu?

Bên cạnh 3 tôn giáo kể trên, người dân bắt đầu tôn thờ thêm đạo Mẫu. Có lẽ xuất phát từ chế độ Mẫu hệ mà hình thành đạo này. Vai trò của người phụ nữ góp phần quyết định sự tồn tại xã hội. Ở nước ta, có nhiều địa danh gắn với chữ Bà: Núi Bà Mụ, Núi Bà Đen (Tây Ninh), Bà Chúa Xứ (Châu Đốc) Bà Điểm, mười hai Bà mụ hoặc những từ trỏ người phụ nữ như Thiên Hậu, Cô Hồng, Cô Hạnh, Nữ Hoa, cửu Thiên huyền Nữ, Thất tinh Nương Nương, Lăng Cô, Dinh Cô, Quan âm Thị Kính, Bà Chúa Kho, Quốc Mẫu, Thánh Mẫu, Vương Mẫu, Công Chúa, Bà Mụ... Người phụ nữ khi siêu thoát, hoặc hiện tượng tự nhiên được tưởng tượng ra, có Mẫu theo người Hoa từ phương Bắc sang, có Mẫu tiếp thu từ các cư dân Khmer, Chăm, Sán Dìu, Tày - Nùng hòa nhập vào. Đạo Mẫu là đạo dân gian, không được vua chúa khuyến khích, đỡ đầu. Người dân tìm đến những nơi phong cảnh kỳ tú, có sông, có suối, có núi, có rừng, càng cheo leo càng tăng thêm khát vọng, để lập đền thờ, ký thác tất cả nỗi niềm tâm sự thầm kín vào sự cầu mong và hy vọng. Người đứng ra hưng công, khởi tạo chủ yếu là phụ nữ. Họ dốc tất cả niềm thành kính, sức lực và tiền của vào công việc xây dựng đền Mẫu, phủ Mẫu thật sự vô tư, khẳng khái

Nơi nào không đủ sức, đủ tài để lập được đền riêng, thì người dân kết hợp luôn vào chùa làng, đình làng. Đằng trước, ở đại diện hay chính điện thì thờ Phật, thờ thánh. Đằng sau, hoặc bên cạnh lập một tòa điện nhỏ để thờ Mẫu. Như vậy, việc thờ Phật thờ thần, thờ thánh là có trước, mặc dầu có Phật, thần, thánh đã là phụ nữ. Nhưng nếu chỉ thờ Mẫu, thì thường thường phủ có sau, hoặc đổi tên đổi danh nghĩa sau này. Gọi đền là gọi chung. Gọi phù mới là nơi riêng để thờ Mẫu.

Mẫu là những ai?

Mẫu là những ai

Ở nước ta, đạo Mẫu thờ Tứ Phủ, tức là bốn mẹ: Mẹ trời, Mẹ đất, Mẹ nước và Mẹ người.

- Mẹ trời gọi là Mẫu Thượng Thiên, Mẫu cửu Trùng, Mẫu Cửu Thiên Huyền Nữ.

- Mẹ đất, còn gọi là mẹ rừng, gọi là Mẫu Thượng Ngàn, Lâm cung Thánh Mẫu.

- Mẹ nước, gọi là Mẫu Thoải do chữ thủy đọc chệch ra, hoặc Thủy cung Thánh Mẫu.

- Mẹ người, gọi là mẹ trần gian, chúa Liễu Hạnh hoặc Mẫu Sòng vì thờ ở đền Sòng, Hà Trung, Thanh Hóa.

Phụ nữ Vĩnh Phúc dù giàu hay nghèo đều tin tưởng và thành kính với Mẫu. Có người chưa biết định danh Mẫu, nhưng vẫn hết sức sùng bái. Trước hết, Mẫu cũng là người phụ nữ, ngồi yên lặng một cách kiên nhẫn để nghe chúng sinh kể lể, giãi bày tâm sự, van lạy tha thứ hoặc cầu xin cho một nguyện vọng. Được chồng hay người yêu chung thủy, được thi đỗ hoặc tìm được việc làm, được sinh con trai hoặc đủ nếp, đủ tẻ, buôn bán phát tài, tai qua nạn khỏi..

- Mẫu là hồn của đất. Mẫu cho cơm gạo ta ăn, hoa trái tươi tốt. Mẫu dạy chim hót, dạy công múa quạt, dạy voi kéo gỗ, dạy hùm thiêng canh giữ núi rừng, dạy con người nhân từ bác ái...

Cho nên người dân quan niệm Mẫu là bậc siêu phàm, tượng trưng tinh hoa của trời đất. Dưới các chân núi thuộc sơn hệ Tam Đảo, lập đền thờ Mẫu là hợp lý, chấp nhận được. Các chùa lập thêm gian thờ Mẫu, cung thờ Mẫu cho các bà các chị có nơi giải tỏa tinh thần, cũng là điều cần có. Theo phong tục thì không nên đặt bàn thờ Mẫu ở Đình thờ Thành Hoàng, đàn ông hay lui tới, không có tiện cho mẹ. Lập miếu ở nhà riêng, vừa chật chội, vừa ồn ào, vừa hỗn tạp. Mẹ là bậc “Mẫu nghi thiên hạ", nêu cao tấm gương đạo đức thanh khiết, ép mẹ ở lẫn với chúng sinh hôi hám, tanh hôi, vụ lợi, tức là bôi nhọ phẩm hạnh của mẹ, hồn thiêng sông núi.

Nơi thờ Mẫu trang hoàng như thế nào?

Nơi thờ Mẫu trang hoàng như thế nào

- Giữa điện, trên cao treo bức hoành phi có 4 chữ “Mẫu nghi thiên hạ" tượng trưng cho đức tính, phẩm cách, quyền lực và vai trò gương mẫu của mẹ.

- Quá giang hai bên điện thờ, có 2 con rắn trắng to bằng cổ tay được làm bằng vải, bò theo quá giang, uốn 3 khúc, đầu có mào đỏ chầu vào cửa điện, vừa là ngựa ngài, vừa là vệ sĩ, tượng trưng lực lượng thủy phủ.

- Dưới quá giang, móc nón chóp mũi đồng, nón thúng quai thao, tua vàng, tua đỏ, lót hoa vân phượng, xâu hạt cườm, dán chân kính, biểu thị một phần trang phục nữ, lộng lẫy uy nghi.

- Trên khám thờ có rèm buông, phía trong là tượng Mẫu sơn son thếp vàng, phủ khăn đỏ. Có thể có một tượng Mẫu, hoặc cả 4 tượng Mẫu cho một chỗ đều hợp lý.

- Phía dưới là hương án, trên bày đỉnh, bình hương, giá nến, đài quả, đài hoa...

- Dưới hương án là một vòm cuốn, trong có phù điêu tạc hình Hắc Hổ (Hùm đen = thiêng) ngồi gần kín hang, nhìn ra ngoài, tượng trưng cho lực lượng núi rừng, bảo vệ Thánh mẫu.

- Bệ dưới, chầu hai bên khám thờ, có tượng 12 cô nàng đứng hầu. Cô cầm quạt, cô cầm hương, cô gảy đàn, cô bưng nước...

- Thông thường trước gian thờ Mẫu có một khoảng trống, trải được hai chiếc chiếu cạp điều, làm nơi cho các bà lễ bái, hầu bóng và “con công đệ tử" ngái. Dưới chân tượng 12 cô nàng, có bệ ngồi thoải mái cho “Cung văn” đàn, hát, kéo nhị, gõ sênh, phách, trống... khi các bà có nhu cầu lên đồng.

Lên đồng là một biểu hiện của đạo Mẫu

Đạo Mẫu có khoảng 60 vị thánh, gồm các Mẫu, các chầu Bà, các vị tôn ông, các ông Hoàng, các cô, các cậu. Có nhiều giá đồng khác nhau, song cốt của lên đồng vẫn là bản thể Mẫu.

Lên đồng là một biểu hiện của đạo Mẫu

Hầu đồng phần lớn là các bà trung niên, mức độ kinh tế khá giả, hoặc các bà đồng chuyên nghiệp, các cô đồng là đàn ông nhưng có nhiều nữ tính, lông mày nhỏ, nói ỏn ẻn, không bao giờ phải cạo râu vì râu không mọc, sống nương nhờ ở đền phủ.

Muốn hầu đổng, phải mua sắm đẩy đù khăn chầu áo ngự tới vài chục chiếc đủ màu. Khăn áo của Mẫu Thượng Ngàn đều màu xanh lam, thêu kim tuyến lóng lánh, bằng lụa Hà Đông, đoạn và gấm rất đắt tiền.

Mỗi giá đồng, người lên đồng thay xiêm y ngay trước bàn thờ, rồi mặc một bộ thích hợp với giá đồng đó. Thường thường hầu 3 giá đồng là đã mất mấy giờ rồi. Trình tự mỗi giá phải trải qua 3 công đoạn.

- Cầu thánh nhập đổng.

- Thánh múa, thánh hét, hú, thánh phán, thánh ban lộc, thánh chữa bệnh.

- Thánh thăng và chuyển giá.

Ba giá đồng gồm có: Giá Mẫu, giá quan lớn Tuần Chanh, giá Bà chúa. Người nhiều tài lộc, có thể hầu 4 - 5 giá.

Tiền ban lộc thường là tiền lẻ, để ban phát cho cung văn và các con công đệ tử ngồi chung quanh cùng với kẹo bánh đã chuẩn bị sẵn. Đối với bệnh nhân, giá đổng cho bùa chú, tàn hương nước thải, hoặc bấm huyệt, xoa bóp ngay tại chỗ đau. Người ốm có ảo tưởng bệnh nhẹ hẳn đi, tin tưởng rồi sẽ khỏi. Tiền và lộc được phát nhiều lần, như thế cũng để giữ chân người hầu cận.

Người lên đồng do khói hương, tập trung tâm trí vào việc tưởng tượng, lại được cung văn hát dẫn chương trình, được mọi người chung quanh tấu hát, tự thấy bay bổng lửng lơ trong không khí êm ái huyễn hoặc, hành động như cái máy, như mộng du, nhảy nhót, múa máy thoát trần, biến thành đấng siêu phàm, thần thông quảng đại, uy phong lầm lẫm trong bộ y phục cực kỳ xinh đẹp, say trầu, say rượu, say hương khói và âm nhạc dìu đặt, ve vuốt.

Những phút thăng hoa, được ca ngợi, được nũng nịu, được ra uy như vậy, người lên đổng thực sự được hưởng hạnh phúc. Người chung quanh cũng có những phút giây thư giãn, vợi bớt nỗi cay đắng, vất vả thường ngày.

Nếu lên đồng đúng mức độ, đừng lãng phí, không quá mê tín, không để ảnh hưởng đến chồng con và đạo đức phẩm chất người phụ nữ, biết theo gương hiển đức của Mẫu, tư cách uy phong của ông hoàng bà chúa, thì có thể coi như một hoạt động câu lạc bộ văn nghệ hoặc tâm linh, chống căng thẳng có hiệu quả. Phần lớn, người lên đồng đểu có hoàn cảnh riêng, tâm sự riêng, đáng thương xót, chỉ có Mẫu là thấu hiểu, ta dừng vội phê phán. Nếu lên đồng không hại đến ai, dành cho một số người được sống những giây phút thiêng liêng, gắn bó với nhau, tin nhau và yêu thương nhau, giảm nhẹ mọi phiền muộn thì lên đồng được coi là một hiện tượng văn hóa, cần được hướng dẫn uốn nắn vào mục đích muốn làm điều thiện, dùng thời giờ nhàn hạ để di dưỡng tinh thần, phát huy khả năng âm nhạc, vũ điệu và đoàn kết thân ái với mọi người.

Cốt lõi của tục thờ Mẫu

Mẫu là gọi theo tiếng Hán, tiếng Việt Nam gọi là Mạ, Mệ, Mẹ, tại sao lại có tín ngưỡng thờ Mẹ? Đó là từ thời nguyên thủy con người bắt đầu có ý thức sâu sắc về sự sinh sản, sự sinh sôi nảy nở, ỷ thức ấy thường biện lý từ cái cụ thể. Mà cái cụ thể về giá trị sinh sôi nảy nở, không gì khác ngoài người mẹ mang nặng đẻ đau, sinh ra nuôi dưỡng che chở cho những đứa con, và những cái gì sinh sôi, nuôi sống che chở bảo vệ cho con người, chiến thắng thiên tai và thư dữ ấy đều được coi là mẹ.

Theo ý nghĩa trên đây, người mẹ biểu tượng đầu tiên nuôi sống, che chở cho con người ấy là Mẹ Cây. Cây cho mẩm, cho rễ, cho quả để con người ăn sinh sống ban đẩu, cây cho vỏ để người mặc, cây cho cành cho những rễ phụ để con người kết lại thành võng treo minh trên đó qua đêm và tránh thú dữ sát hại. F.Engels trong sách “Nguồn gốc gia đinh chế độ tư hữu và nhà nước" đã viết ý là: ít nhất con người còn sống ở trên cây một phần, thì mới có thể giải thích được rằng họ có thể sinh tồn cùng với thú dữ.

Hiện nay ở xã Tiên Nông (khởi thủy nghề nông), bên bờ sông Lô, thị xã Tuyên Quang có đền thờ Mẫu Ỷ La. Nay đền đã quang đãng, nhưng trước đây không lâu, bao quanh đền là cả một rừng cây đa cổ thụ, rễ phụ đan nhau chằng chịt. Cũng ở thị xã Tuyên Quang, có một đến Ỷ La khác trên núi La thờ bà chúa Thượng Ngàn. Hoặc như đền Bắc Lệ Hữu Lũng Lạng Sơn, thờ bà chúa Thượng Ngàn, cũng trồng rất nhiều cây đa, cây si đã thành cổ thụ được gọi là cây thiêng, cây bất tử tỏa bóng che cho khách hành hương. Ỷ là dựa, La là lưới là võng, rễ những cây đa cây si được Tết thành lưới thành võng như những cái nôi ru đưa con người nguyên thủy chìm vào trong giấc ngủ qua đêm tránh thú dữ. Bởi thế Ỷ La trở thành biểu tượng đầu tiên về Mẹ thiêng liêng. Theo tác giả Toan Ánh, trong sách “Nếp cũ", có nói ở đền Bác Lệ, Lạng Sơn treo bức tranh Mẫu Thượng Ngàn ngồi trên chiếc võng giăng giữa hai cây trong rừng xanh, xung quanh có nhiều vườn chim và các cô nàng đứng hầu hạ. Việc thờ Mẫu mang tính chất là thờ Mẹ Cây Mẹ Rừng này còn thấy rõ nét ở nhiều nơi. Như ở đền Hai Bà Trưng, Đồng Nhân, Hà Nội, trên bàn thờ Mẫu treo bức hoành phi đề “Tam mộc sâm đình”, hay ở đầu bàn thờ Mẫu thấy bức hoành phi đề như thế này, ấy là mang tính chất thờ Mẫu ban đầu là Mẫu Sơn Lâm. “Tam mộc sâm đình" là ba cây làm nên rừng lớn. Dân ta có câu:

“Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao".

Đấy là hình ảnh nói về sức mạnh đoàn kết cộng đồng bắt nguồn từ thờ Mẫu “Tam mộc sâm đình”. Hoặc như nhiều làng dệt ở vùng Hà Đông cũ mang tên La Khê, La Cả thờ tổ dệt là Mẫu La.

Mẫu Ỷ La mang tính chất là Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Sơn Lâm dược nhân cách hóa thành những huyền thoại như sau:

- Vua Hùng Định Vương có bà hoàng hậu thứ ba, tên là bà An Nương, mang thai khá lâu, bà đi chơi giữa rừng xanh, trở dạ đẻ, bà vịn vào gốc cây quế cổ thụ, đau đớn vất vả lắm mới sinh được con gái, nhưng bà kiệt sức mất ngay sau khi sinh con. Con gái được vua cha đặt tên là Mị Nương Quế Hoa. Lớn lên Quế Hoa rất xinh đẹp, nhiều hoàng tử xin kết duyên, nhưng nàng không hề để ý, chỉ hiềm một nỗi nhớ nhung tìm mẹ. Nàng cùng 12 thị nữ, đi khắp rừng xanh tìm mẹ. Trên đường đi nàng gặp rất nhiều dân tình đói khổ vào rừng đào củ mài kiếm ăn, nàng rất xót xa thương dân tình đói khổ. Với lòng nhất mực hiếu thảo tìm mẹ, và lòng bác ái thương dân, nàng đã được tiên ông hiện xuống cho sách quý có phép màu, làm núi sông thông thương trở lại, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu, cuộc sống dân lành ấm no, yên vui trở lại... Đám mây ngũ sắc hạ xuống đón bà và 12 thị nữ về trời... Nhân dân thương nhớ tôn Nàng là Thượng Ngàn Thánh Mẫu, lập đền thờ, nay là đền suối Mơ ở Hữu Lũng Lạng Sơn.

Mẫu Thượng Ngàn

Câu chuyện trên dây, tất hình thành nên sau này, như chuyện Tấm Cám có ông Tiên cho phép lạ, nhưng cốt lõi ở đày là bà Mẹ Rừng xanh và Thánh Mẫu Thượng Ngàn.

- Thánh Tản Viên sau khi thắng Thủy Tinh, được vua Hùng gả con gái là Ngọc Hoa. Tản Viên và Ngọc Hoa sinh được người con gái hiền thục đặt tên là La Bình (ở đây ta lại gặp chữ La là lưới, là võng). La Bình luôn đi theo cha khắp núi rừng săn bắn. Đi đến đâu La Bình cũng quyến luyến với núi rừng, cây cỏ, muông thú. Thấy vậy Thượng đế phong cho nàng là nữ chúa rừng xanh. Từ đó nàng càng gắn bó với núi rừng, dạy bảo muôn loài cầm thú, không gây điều ác. Do công lao ấy thượng đế giao cho nàng cai quản 81 cửa rừng xanh ở chốn Nam Giao. Nàng còn có công giúp triều Lý thắng Tông, Trần thắng Nguyên, nhất là giúp quân ông Lê Lợi thắng giặc Liễu Thăng ở Lạng Sơn. Vì vậy nàng được tôn là chúa Thượng Ngàn, nhân dân lập đền thờ, nay là đền Bắc Lệ ở Hữu Lũng Lạng Sơn, cách đền Suối Mơ không xa.

Ở đây câu chuyện có hai ý, một là con người còn sống chung với muông thú trong rừng sâu, và con người đã khuất phục chiến thắng được thú dữ. Hai là câu chuyện được kéo về chúa Thượng Ngàn giúp dân ta chống giặc Bắc, mà Lạng Sơn là địa đầu trong các cuộc kháng chiến ấy, nên Bà lại được quy về thờ ở Bắc Lệ.

- Câu chuyện Mẫu Thượng Ngàn hay Mẫu Đệ nhất, là một cô gái người Dao ở Đông Cuông, Yên Bái. Khi cô sinh ra, bố mẹ đã già yếu, từ nhỏ đến lớn cô chỉ làm việc thiện, không lấy chồng, khi chết Bà hiển linh giúp đỡ dân làng được nhiều điều tốt đẹp, nên Bà được thờ ở các tình Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái và Bà cũng báo mộng cho ông Lê Lợi, ông Nguyễn Trải biết được đường tiến quân của giặc Minh để thắng chúng ở Lạng Sơn, nên cũng được thờ ở đền Bắc Lệ, ở Đồng Đăng Kỳ Lừa Lạng Sơn.

Cùng với những câu chuyện trên đây, ở việc đồng bóng thường xuyên xuất hiện các mẫu đệ nhất, đệ nhị là các chầu bà người miền núi: Dao, Tày, Nùng nhập đồng, dã phản ảnh đậm nét thời kỳ mẫu xuất hiện gắn với con người còn cư trú trên miền rừng núi. Mà dấu tích của nó là hệ thống các đền thờ Mẫu còn thấy ở trên miền núi. Cùng với các đền Ỷ La, đền Bắc Lệ, đền Suối Mơ giới thiệu trên đây, ta còn biết các ngôi đền khác, như đền Giùm thờ Mẫu Thủy ngàn ở cửa sông Lô đổ vào sông Hồng Yên Sơn Tuyên Quang, đền thờ Mẹ Âu Cơ ở xã Hiền Lương bên sông Theo Yên Bái, đền thờ Mẫu bên Thác Bờ Hòa Bình, đền Chợ Củi thờ Mẫu Thượng Ngàn ở thượng nguồn sông La Nghệ Tình.

Như vậy, có thể nói được rằng, tín ngưỡng thờ Mẫu ở người Việt hay ở Việt Nam, khỏi đầu gắn với con người còn cư trú trên các miền rừng núi. Có nghĩa là tín ngưỡng thờ Mẫu khởi nguyên từ miền rừng núi thờ Mẹ Cây và sau này gọi Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Sơn lâm, rồi theo dòng lịch sử, dần đi xuống trung du đồng bằng, bổ sung thêm những Mẫu khác.

Khi con người xuống trung du, đồng bằng sống bằng nghề nông nghiệp lúa nước, cây lúa hạt gạo là yếu tố quan trọng hàng đầu nuôi sống con người, rồi các cây hoa màu, cây ăn quả, Mẹ Cây vẫn gắn bó chặt chẽ với đời sống con người. Và con người làm nông nghiệp lúa nước, thì đất và nước là hai đối tượng quan trọng tiếp theo được tôn thờ. Đất và Nước được tôn vinh thành Mẹ Đất Mẹ Nước và có tên khác Mẫu Địa, Mẫu Thủy gia nhập vào hàng ngũ Mẫu được tôn thờ.

Thế nhưng quyết định có nước lại là mưa từ trên trời rơi xuống, con người chưa hiểu nổi quy luật của mưa là nước bốc hơi lên thành mây mưa, cho đó là trời quyết định, mẹ trời được tôn vinh, Mẫu Thiên gia nhập vào hàng ngũ Mẫu. Tín ngưỡng là từ thực tế cuộc sống, con người đặt ra những lực lượng tôn vinh, tôn thờ phù hợp với cuộc sống của minh là thế. Mẹ Cây, Mẹ Rừng (sau này gọi Mẫu Thượng Ngàn hay Mẫu Sơn Lâm). Mẹ Đất, Mẹ Nước, Mẹ Trời (thời tiết, khí hậu), hay gọi theo tiếng Hán là Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Địa, Mẫu Thoải (Thủy), Mẫu Thiên là hệ thống Mẫu cơ bản ban đầu của tín ngưỡng thờ Mẫu.

Trong bốn Mẫu trên đây, Mẫu Sơn Lâm đã được nhân cách hóa như trên. Còn Mẫu Thủy được nhân cách hóa như sau:

- Dị bản từ làng A Lữ kể rằng, thuở trời đất mới mở mang, rừng núi sông hồ hoang vu, Kinh Dương Vương thường đi chu du khắp nơi, một hôm tới hồ Đông Đinh gặp người con gái sắc đẹp tuyệt trần, con vua Long Vương hồ Đông Đình. Kinh Dương Vương lấy nàng làm vợ, sinh ra Sùng Sản, chính là Lạc Long Quân, Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ sinh bọc trăm trứng, nở trăm con, Tổ tiên Lạc Việt, từ Rồng, từ nước.

Có truyền thuyết lại nói Mẫu Thoải không phải là một bà mà là nhiểu bà. Các bà đểu là con của Lạc Long Quân, trong đó chọn được ba người, giao cho quản lĩnh sông biển nước Nam, đóng đinh ở sông Nguyệt Đức. Một bà có hiệu là Thủy Trinh Động đình Ngọc Nữ công chúa. Bà thứ hai có hiệu là Hoàng Hà Đan Khiết phu nhân. Bà thứ ba là Tam Giang công chúa. Tam Giang nay là ngã ba Sà Yên Phong Bắc Ninh.

- Một truyền thuyết khác, do người pháp là Durant sưu tầm, kể rằng ở vùng Tuyên Quang, có một hoàng tử con vua đất là Kinh Xuyên, lấy vợ là con gái Long Vương ở hổ Đông Đình, bà rất yêu chồng. Nhưng Kinh Xuyên lại lấy vợ hai tên là Thảo Mai. Thảo Mai ghen ghét vợ cả, vu cáo vợ cả không chung thủy với chồng. Bực tức, Kinh Xuyên nhốt vợ cả vào cũi, đem bỏ vào rừng cho thú dữ ăn thịt. Ở trong rừng, bà vợ cả không những không bị thú dữ ăn thịt, mà chúng còn mang hoa quả nuôi sống bà. Một hôm có một nho sĩ đi qua, bà nhờ nho sĩ viết thư gửi cho cha là Long vương, bà được cứu thoát. Long Vương muốn gả bà cho nho sĩ, nhưng ông từ chối, chỉ nhận là người bạn trung thành của bà. Đề cao đạo đức của bà, người đời tôn bà là Mẫu Thoải hay còn gọi là Mẹ Nước lập đền thờ ở Tuyên Quang, gọi đền Giùm, bên hữu ngạn sông Lô như đã giới thiệu.

Qua những câu chuyện nhân cách hóa viết về Mẹ Nước trên đây, ta thấy yếu tố nho giáo ban đầu chưa hội nhập và tín ngưỡng thờ thần. Và Mẫu Thoải vẫn không tách khỏi các yếu tố ban đầu của nó, lấy chồng là con gái vua Đất, mẹ Nước bị bỏ vào trong rừng. Ba yếu tố Đất, Nước, Cây vẫn được nhấn mạnh trong ý niệm ban đầu của tín ngưỡng thờ Mẫu.

Đến Mẹ Đất, Mẹ Trời thì được nhân cách hóa khi Phật giáo du nhập. Qua câu chuyện Bà Man Nương, làm thù hộ ở chùa Luy Lâu, do nhà sư Khâu Đà La (người ấn Độ vô tình bước qua người bà, khi bà nằm ngủ thiếp ở hiên cửa trai phòng, bà động thai, sinh bé gái. Bà đem trả con cho nhà sư, nhà sư đem bé gái, đọc thần chú, gửi vào trong gốc cây dung thụ. Về sau mưa to gió lớn, cây dung thụ đổ trôi về bên sông Dâu. Em bé gái trước đây nằm trong gốc cây dung thụ biến thành Thạch Quang Phật, cây dung thụ được tạc thành 4 pho tượng, tôn làm bà Pháp Vân, bà Pháp Vũ, bà Pháp Lôi, bà Pháp Điện đây là 4 yếu tố gắn với thời tiết, khí hậu: Mây mưa sấm chớp, thành hệ thống chùa Tứ Pháp thờ ở nhiều nơi trên đồng bằng Bắc bộ.

Ở đây ta thấy Mẹ Trời được triển khai thành Mây Mưa Sấm Chớp, cho kết hợp với Phật giáo thành các Bà, vẫn là yếu tố Mẹ. Và đặc biệt sự nhân cách hóa này, Mẹ Trời vẫn là hòa quyện với ba yếu tố ban đầu là Đất, Cây là cây dung thụ và Nước là cây dung thụ theo dòng nước chảy về bến sông Dâu.

Việc thờ Mẹ Cây, Mẹ Đất, Mẹ Nước xưa kia phổ biến ở các làng quê trung du đồng bằng Bắc bộ. Với bộ ba luôn đi liền nhau với nhau và, giếng làng, Cây đa, cây si hoặc cây đại với bệ bên gốc đa, đặt các bình vôi đã nứt vỡ, từ trong các gia đình đưa ra.

- Đến đây một vấn đề đặt ra là tại sao người Việt lại sâu sắc tôn thờ những đối tượng Cây, Đất, Nước và Trài thành các mẹ, đó là do nằm trong bản chất văn hóa Việt Nam, mang tính triết học biểu hiện ra như sau:

+ Một là: Sâu nặng ý thức nhớ về cội nguồn. Qua tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên tín ngưỡng thờ thần là những vị có công dựng làng, giữ nước, thể hiện rất rõ điều đó. Còn đối với người mẹ mang nặng đẻ đau nuôi dưỡng nên những đứa con, thì nghĩa mẹ thật là sâu nặng không cùng. “Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, nước trong nguồn chảy ra không bao giờ hết, không bao giờ cạn, thì nghĩa cả ơn Mẹ chẳng bao giờ nguôi. Từ ý thức ấy, mở rộng ra tầm nhìn văn hóa, thì những cái gì là yếu tố có ý nghĩa quyết định sinh sôi ra của cải hạt gạo bát cơm, tố chất cơ bản bao đời nuôi sống con người cư dân nông nghiệp lúa nước, thì cũng có thể ví như công ơn nghĩa Mẹ. Vì thế Cây, Đất, Nước (thời tiết khí hậu) được tôn vinh như những bà Mẹ văn hóa.

+ Hai là: Văn hóa Việt Nam nặng triết lý âm sinh dương thành chứ không phải âm thịnh dương suy. Biểu hiện ở văn hóa nông nghiệp lúa nước, nên rất đề cao yếu tố yên tĩnh hòa bình rất coi trọng tình nghĩa xóm làng, để đoàn kết, tạo sức mạnh chống thiên tai địch họa, làm thủy lợi. Và trong ứng xử bang giao thì hiếu hòa hơn hiếu thắng và biết “cúi đầu để giữ nước" cũng là âm tính. Nhưng âm phải vận hành trong sinh sôi phát triển, vì thế “dĩ bất biến ứng vạn biến", “giặc đến nhà đàn bà cũng phải đánh”. Bởi thế văn hóa Việt Nam, mọi trách nhiệm và vinh quang đều quy về người mẹ, “con dại cái mang”, “con hư tại mẹ, cháu hư tại bà", sông cái, đường cái, trống cái, thúng cái, rổi thì mẹ Quê hương, Mẹ Tổ quốc, Mẹ Việt Nam anh hùng...

Từ những điều mang tính triết lý văn hóa trên đây, mà ở Việt Nam người mẹ được tôn vinh, người mẹ có riêng một tín ngưỡng, tín ngưỡng thờ mẹ, gọi theo tiếng Hán là Mẫu. Cũng như chỉ có Việt Nam mới có riêng một bảo tàng về phụ nữ Việt Nam.

Từ những dẫn giải trên dây có thể kết luận: Cốt lõi của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam là tôn thờ bốn đối tượng Cây, Đất, Nước, Trời, những yếu tố cơ bản sản sinh ra của cải vật chất, hạt gạo, bát cơm, tố chất cơ bản bao đời nuôi sống con người cư dân nông nghiệp lúa nước, thành các bà mẹ văn hóa, gọi chung là tín ngưỡng thờ Mẫu.

Các Mẫu trong xã hội phong kiến được tôn lên như những bà chúa. Mà chúa thì ở phủ, vì thế tín ngưỡng thờ Mẫu với bốn đối tượng trên đây được gọi là tín ngưỡng Tứ Phủ đó là Mẫu Sơn Lâm gọi Nhạc phủ, Mầu Địa là Địa phủ, Mẫu Thủy là Thủy phủ, Mẫu Thiên là Thiên phủ.

Viết bình luận