Tiết Thanh minh - Văn khấn Tiết Thanh Minh

Ông bà ta xưa chọn Tiết Thanh Minh là ngày cắt cỏ trên mộ và đắp đất lên mộ (tảo mộ). Vì ngày này thời tiết chuyển sang ếm dần, mưa nhiều hơn, cây cỏ tốt hơn trùm lên mộ, có thể làm mộ sụt lở nên cần phải cắt cỏ, đắp thêm đất lên mộ.

Tiết thanh minh

Con người ta khi sống thì lam lũ lo cuộc sống, thậm chí còn bon chen, tham lam vơ vét làm giàu, nhưng khi hai bàn tay buông xuôi mọi sự đều chấm hết nên dân gian có câu:

“Trăm năm còn có gì đâu,

Chẳng qua một nấm cổ khâu (đống đất cũ) xanh rì’’.

Song lẽ sống ở đời, đạo làm người giữa sống và chết. Khi mà âm dương cách biệt thì tình cảm giữa cha con, ông bà, Tổ tiên mới thật ý nghĩa và việc báo hiếu để thấu đạt công cha nghĩa mẹ. Việc chăm sóc phần mộ, cũng như cúng lễ trong tiết thanh minh để chứng minh thêm đạo nghĩa mới hiển hiện bản chất dân tộc, con người phương Đông.

Tiết Thanh Minh để truy tư công đức, để nhớ để thương, để bùi ngùi xúc động. Nhưng không vì lẽ đó mà lúc nào cũng ảm đạm, buồn rầu. Người ta đã nén đau thương mà vui trong hội “đạp thanh”. Ngày hội dẫm trên cỏ xanh để nhìn về quá khứ, nhớ đến Tổ tiên ông bà. Làm được điều đó, giữ được điều đó sao lại không vui. Chả thế mà đại thi hào Nguyễn Du đã viết:

“Thanh minh trong tiết tháng ba

Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh ”.

Điều cốt lõi trong tục lệ Thanh minh là ra nghĩa trang thăm nom phần mộ Gia tiên xem có bị sạt lở, bị cáo cầy đào bới hay không. Nếu có thì phải vun đắp sửa sang không được thờ ơ, thậm chí để thất lạc phần mộ. Do vậy cổ nhân đã nhắc nhở, khiển trách ai đó thiếu ý thức:

“Nhật chí hồ ly miên chủng thượng

Dạ lai nhi nữ tiếu đăng tiền ”

(Sáng ra cáo ngủ trong hầm mộ

Đêm về trai gái trước đèn cười)

Ngày nay, mọi người đã chú ý đến phần mộ Tổ tiên một cách đúng mức hơn. Ngoài việc sửa phần mộ, người ta còn lo sửa lễ tại nghĩa trang, nghĩ đến việc cúng thần linh và mời vong linh về chứng giám cho tấm lòng thành của con cháu.

Do vậy trong tiết Thanh minh nhà nhà đều chú ý đi tảo mộ, lo lắng sắm sửa làm lễ cúng mời Tổ tiên về xơi lưng cơm, hưởng chút lễ mọn mà con cháu tâm thành cúng dâng.

Có gia chủ ra nghĩa trang đặt lễ vào miếu thần linh, đèn nhang khấn vái, mong có sự âm phù cho mồ yên mả đẹp.

1. Sắm lễ

Lễ trong tiết Thanh Minh gồm có: hương đèn, trầu cau, tiền vàng, rượu thịt (chân giò, gà luộc hoặc một khoanh giò nạc độ vài lạng), hoa quả.

Sắm lễ

Khi đến nghĩa trang hay khu vực có để mộ phần của gia đình mình thì gia chủ đặt lễ vào chỗ thờ chung. Sau đó thắp đèn, nhang, vái ba vái vị Linh thần Thổ địa rồi khấn.

“Sống về mồ về mả,

Không ai sống về cả bát cơm”

2. Văn khấn lễ vong linh ngoài mộ

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.

- Kính lạy Hương linh;........................................................

(Hiển Khảo, Hiển tỷ hoặc Tổ Khảo....................................)

Hôm nay là ngày....tháng...... năm ...................................

Nhân tiết..................................................................................

Tín chủ (chúng) con là:.....................................................

Chúng con và toàn thể gia đình con cháu, nhờ ơn công võng cực, nền đức cao dày, gây dựng cơ nghiệp của.................. chạnh lòng nghĩ đến âm phần ở nơi hoang vắng, tín chủ con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương kính dâng trước mộ, kính mời chân linh .................lai lâm hiếu hưởng. Chúng con xin phép được sửa sang phần mộ, bồi sa, bồi thổ, cho được dày bền, tu sửa minh đường hậu quỷ cho thêm vững chắc. Nhờ ơn Phật Thánh phù trì, đội đức trời che đất chở, cảm niệm Thần linh phù độ, khiến cho được chữ bình an, âm siêu dương thái. Con cháu chúng con xin vì chân ;inh ...................... phát nguyện tích đức tu nhân, làm duyên, làm phúc, kính dâng Tam Bảo, giúp đỡ cô nhi quả phụ, tế bần cứu nạn, hiếu thuận tông nhân để lấy phúc này hướng về Tiên tổ.

Cúi xin linh thiêng chứng giám, thụ hưởng lễ vật, phù hộ độ trì con cháu, qua lại soi xét cửa nhà. Che tai cứu nạn, ban tài tiếp lộc, điều lành mang đến, điều dữ xua đi. Độ cho gia đạo hưng long, quế hòe tươi tôd, cháu con vui hưởng lộc trời, già trẻ nhuần ơn Phật Thánh.

Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin chứng giám.

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

Sau khi khâu xong, đợi hết 2/3 tuần hương thì đi lễ tạ các nơi, hoá vàng, xin lộc và mọi người về nhà làm lễ Gia thần và Gia tiên ở nhà.

----------------------------------------------------

Bất kỳ thời điểm nào trong năm khi đi sửa sang mộ phần ai đó trong họ, hoặc thăm viếng đều có thể khấn bài này.

Kính lạy (cha hoặc mẹ, hoặc ai đó…)

Hôm nay là ngày... tháng... năm...

Trước phần mộ tại thôn... xã (phường)... huyện (thành) ... tỉnh... nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nhân tiết (hoặc ngày)...

Con hoặc cháu là... đồng gia quyến thăm viếng phần mộ, thành tâm sửa biện lễ vật hương hoa cáo yết Tôn thần, cúng viếng Hương linh. Xin được quét dọn, sửa sang phần mộ.

Cung duy:

Nhờ công ơn võng cực, đức độ cao dày của Hương linh...

Nhờ sự độ trì của Thần linh, khiến gia cảnh bình an khang thái.

Tiếp theo nếp cũ chúng con (hoặc cháu) đồng giá,

Nguyện sông thuận hòa, làm ăn chăm chỉ

Hiếu hiền nhân hậu, lưu phúc về sau

Rạng rỡ gốc nhà, đẹp lòng Tiên tổ.

Cúi xin Thần linh chứng giám

Hương linh... đồng lai thấu cho tấc lòng Thụ hưởng lễ vật, trà tửu phù lưu Quả phẩm kim ngân, lòng thành giám cách

Kính mong chư vị, phù hộ độ trì

Giải tai cứu nạn, hung nghiệt xua đi

Ban tài ban lộc, mọi sự hanh thông

Độ cho gia đạo hưng long, quế hòe tươi tốt

Cẩn cáo.

3. Văn khấn tại miếu thần linh nghĩa địa

Hôm nay là ngày.......... tháng................ năm .................

Tín chủ là .......... đồng gia quyến hiện ở tại thôn ......................... xã (phường).......... huyện (thành phố)..........tỉnh......................Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Kính lạy: Chư vị Thần linh Thổ địa, Long mạch chính thần.

Hiện có mộ phần Chân linh... (là cố' phụ, cố' mẫu...)

Táng tại bản xứ...

Nay tín chủ thiết kêu thiết cầu, mong chư vị lai lâm giám chiếu, độ cho vong linh an nhàn yên ổn, siêu thoát u đồ.

Gia ân cho tín chủ chúng con bình an mạnh khoẻ.

Gọi là có chút lễ mọn, bày tỏ tấc thành

Cảm cung cáo vu, kính xin chứng giám.

Cẩn cáo.

Đọc xong vái bốn vái. Một lúc sau (sắp tàn hướng) vái tạ, đốt tiền, vàng và cả sớ tâu (văn khấn) nếu có.

* Lưu ý : Khi chờ đợi lễ tạ nên cắm hương cho các mộ phần lân cận. Đây cũng là nét đẹp văn hoá, từ thiện của dân tộc.

Hiện nay một số dòng họ dã quy tụ được mộ phần vào chung khu vực, lại xây dựng cả lễ đài, tường bao, đường ra vào, trang trí cây cảnh cho khu vực lăng mộ, do vậy việc bảo tồn cũng như thăm viếng khá thuận lợi. Đứng trước lăng mộ Tổ tiên người đã có bài khấn:

4. Văn khấn tại khu lăng mộ

(Vái bốn vái)

Nhân tiết Thanh minh năm …………….

Hôm nay là ngày... tháng... năm .....................................

Tử tôn trong họ tộc gồm....................................................

Hiện ngụ tại............................................................................

Đứng trước phần mộ Tổ tiên gồm có... hiện táng tại..................

Kính mong các đấng Thần linh, Thổ phủ long mạch, Tiền Chu tước, Hậu Huyền Vũ, Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ cùng liệt vị Tôn thần cai quản bản địa.

Cúi lạy, xin được gia ân, gia hộ cho mồ mả bình yên.

Nhân tiết Thanh minh, toàn hộ tộc nghiêng mình kính cẩn (vái 4 vái).

- Kính lạy chư vị Tổ tiên... (gồm vị nào)

Đứng trước phần mộ, con cháu gần xa, lễ bạc tâm thành

Nhất tâm bái thỉnh.

Kính mong chư vị, lai đáo dương cơ, giám cách giáng lâm nạp thụ lễ vật.

Ban tài ban lộc, bồi đắp hậu sinh

Tông ách khai hanh, phúc duy thượng hưởng.

(Vái 4 vái)

Sau khi ra thăm mộ, ở nhà đã chuẩn bị lễ vật, cỗ mặn cúng Tổ tiên. Và khi đã đèn hương, khấn Gia thần xong, sẽ đọc bài văn khấn Tổ tiên:

5. Văn khấn thanh minh tế tiên tổ

Hôm nay là ngày.......tháng...........năm ............................

Cháu là.... thay mặt dòng họ... kính thỉnh Gia tiên về tại thôn... xã (phường)... huyện (thành)... tỉnh ....................

Ư linh vị tiền viết:

Hào hương thiên môn, dương điều nhị tam nguyệt,

Cảm càn khôn sinh vật chi ân

Bồi u hiển thù công chi thiết.

Đối thì nhi sái tảo mộ phần,

Truy viễn nhi tông thân khí huyết

Tư nhân tảo sự dĩ thành, phỉ nghi kính thiết, kiều kỳ hoàng nhưỡng cảm thông, thâm vọng u huyền th âu triệt.

Vũ dĩ minh nhân đạo thường kinh,

Vũ dĩ biểu xuân hoà giai tiết.

Thực lại Tổ tiên phù trì chi đại lực dã Cẩn cáo.

Dịch nghĩa:

Trước linh vị Tổ tiên thưa rằng:

Thấu khắp mọi nơi, tháng (2) 3 dương khí,

ơn Trời đất sinh ra người và vật

Nhớ công lao vun đắp của Tiên linh,

Trước hãy lo việc tu sửa mộ phần.

Sau mong được cháu con thịnh vượng.

Nay nhân đã sửa xong phần mộ

Vậy kính mong chư vị thần linh,

Cùng Tổ tiên nơi suối vàng thấu rõ.

Nay đã vì đạo sáng của trời

Cùng với tiết xuân hoà của người

Cầu Tổ tiên gia ân phù trì,

Cho mọi sự thành công tốt đẹp.

Kính cẩn tâu bày

6. Văn khấn lễ đàm

Văn khấn lễ đàm - đoạn tang (tức là tế trừ phục hết hạn mặc áo tang)

Nhân dịp tiết Thanh Minh thăm viếng mồ mả, hên quan đến việ c c ả i táng m ộ p hầ n, đến việc hết hạn mặc áo tang, hoặc đeo tang ngày thường cũng như khi cúng lễ. Xin đề cập việc tế lễ đoạn tang. Kể từ khi chịu tang cho đến khi lễ đàm, không kể tháng nhuận là 27 tháng.

Trước khi làm lễ đoạn tang một tháng, chủ nhân phải mặc đồ trắng làm lễ cáo trước ban thờ, khấn:

“Kính lạy (bố hay mẹ)... Con là... đồng gia quyến định sang tháng vào ngày... sẽ làm lễ đàm cho bố hoặc mẹ... Nếu được xin báo ứng cho con biết”.

Khấn xong lấy hai đồng tiền xin âm dương ra, lạv khấn:

“Trên trời lấy nhật nguyệt phân chia ngày đêm , dưới đất coi âm dương mà phân biệt.

Người trần mắt thịt, mờ mịt không hay. Vậy gieo đồng tiền trông sự báo ứng, giúp cho con biết lành mà tới, biết dữ mà xa. Con vái lạy Hương linh, cẩn cáo”.

Gieo tiền thấy một đồng sấp, một đồng ngửa thì được. Nếu không lại khấn như trên xin tuần thứ 2 (trung tuần), vẫn không được lại xin lần thứ 3 (hạ tuần). Nếu hạ tuần không được thì sửa lễ xin tiếp, hoặc chờ đến cuối tháng mà làm cũng được.

Nghi thức như lễ đại tường. Nghĩa là trước đó một ngày đem “chủ ” ra lễ cáo (chủ là bài vị). Khi làm lễ, bỏ bớt đồ tang phục, nam thì bỏ dây đai mũ và vải trùm vai, nữ thì bỏ quần tang quét đất.

Khi lễ đàm có làm cỗ cúng cùng hương, đăng, trà tửu...

-------------------------------------------------

Hôm nay là ngày... tháng... năm... con... kính lạy…

Đau xót thay cha (mẹ)... xa lánh cõi trần

Trước mắt xuân đường khói phủ, giọt lệ chứa chan

Ngoảnh nhìn núi Hổ (Dĩ) mây che, lòng đầy thương nhớ.

Tính năm đã qua hai tường (2 lần tế lễ)

Kể tháng cũng vừa đàm tế!

Dẫu thời gian chuyển đổi, tang phục hết kỳ

Song con người nghĩ đến thờ thần, hiếu tâm vẫn thế.

Lễ kính bày trừ phục lệ xưa

Nhưng tình vẫn nhất tâm sau trước.

Kính mời Hương linh... cùng chư vị... chứng giám

Lễ bạc chi nghi, diêu soạn thứ tu

Độ trì cho con cháu toàn gia, an khang thịnh vượng.

Phục duy thượng hưởng.

Sau lễ đàm sẽ ăn uống vui vẻ, mời rượu lẫn nhau rồi đi ngủ, ý để nguội đi nỗi thương đau, từ nay không phải bận tâm nhiều đến việc hiếu, mà chỉ lo chuẩn bị cho việc cát táng.

Viết bình luận