Tết Hàn thực - Tết bánh trôi bánh chay (Ngày 3 tháng 3) - Văn khấn

Theo phong tục xưa của Trung Quốc: vào tết Hàn Thực (ngày 3 tháng 3) mọi người không nổi lửa mà chỉ ăn đồ nguội đã chuẩn bị sẵn từ hôm trước. Hàn thực có nghĩa là thức ăn nguội và Tết Hàn Thực là Tết ăn đồ lạnh, có nghĩa là phải nấu đồ lễ từ hôm trước, còn ngày 3 tháng 3 cấm lửa.

Tết Hàn thực

1. Nguồn gốc Tết Hàn thực

Vào thời Xuân Thu trước Công Nguyên, vua Văn Công nhà Tân phải đi lánh nạn. Cùng đi theo hầu có Giới Tử Thôi là bầy tôi trung thành, từ lúc Văn Công mới là Công tử Trùng Nhĩ, phải long đong bôn tẩu khắp mọi nơi, hết chạy sang nước Địch, lại trốn sang nước Vệ, nước Tề, nước Sở. Suốt 19 năm trời lận đận. Có lần hết lương thực, Giới Tử Thôi phải cắt đùi mình nấu dâng chúa công để giải nguy khi đói. Ấy thế mà khi thành sự, Trùng Nhĩ khôi phục được nước, lên ngôi vua tức Tân văn Công lại quên Giới Tử Thôi là người có công đầu khi gặp khó khăn hoạn nạn.

Thấy mọi người được phong thưởng, còn mình bị bỏ quên, Tử Thôi không oán hận nhưng tủi phận bỏ về nhà, đưa mẹ vào núi Miên Sơn ở ẩn. Sau này Văn Công nhớ ra cho người đi tìm kiếm Tử Thôi nhưng không thấy. Vua Tấn biết Giới Tử Thôi 5 Miên Sơn không chịu ra nên hạ lệnh đốt rừng để buộc ông phải ra. Nào ngờ Tử Thôi và mẹ ông đều bị chết cháy trong rừng.

Nguồn gốc tết Hàn thực

Nhà vua thấy vậy tỏ lòng thương cảm, cho lập miếu thờ. Hàng năm đến ngày 3 tháng 3 là ngày đốt rừng và cũng là ngày hai mẹ con Tử Thôi chết cháy, có lệnh cấm dùng lửa nấu ăn, ngay việc làm cỗ cúng cũng phải làm từ hôm trước. Và vì ăn thức ăn lạnh nên dân gian gọi là tết Hàn Thực.

Người Việt Nam chung sống với người Hoa từ lâu đời, sự giao lưu văn hóa và cuộc sống có nhiều sự gắn bó. Cho đến nay, dân ta cũng làm bánh trôi bánh chay trong dịp tết 3 tháng 3 và cả các dịp tết Đoan Ngọ, rằm tháng Bảy. Các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định thì món bánh này trở thành thức ăn hấp dẫn trong dân gian. Nhưng người Việt ăn bánh trôi, bánh chay lại liên tưởng đến hội đền Hùng ngày 10 tháng 3, hoặc hội đền thờ Trưng Nữ vương ở Hát Môn ngày 5 tháng 3. Ở đây người ta làm những mâm bánh trôi gồm 100 chiếc, tưởng nhớ đến chuyện bà Âu Cơ đẻ trăm trứng, nở trăm con từ buổi bình minh lịch sử. Người ta nghĩ đến chuyện Hai Bà Trưng khởi nghĩa đánh quân Nam Hán phải bảy nổi ba chìm và phải trầm mình xuống sông Hát Giang tuẫn tiết.

Dù tình sử hay bi tình sử thì chuyện tết Hàn Thực vẫn có ý nghĩa trong cộng đồng dân tộc Việt, cộng đồng cư dân vùng Đông Nam Á. Do vậy mà trên ban thờ Gia tiên, trên mâm cỗ tại đền thờ, cũng như một số chùa miền Bắc đã hiện diện món bánh trôi, bánh chay. Lại trên các quầy hàng, gánh hàng ở góc phố, đầu chợ vẫn thấy cảnh mọi người điềm tĩnh thưởng thức món bánh trôi, bánh chay ngon miệng.

Làm bánh trôi, bánh chay đều bằng loại bột nếp nhào với nước nhưng bên trong có nhân đường phèn hay đường đỏ là bánh trôi. Trong làm nhân đỗ xanh nấu chín là bánh chay. Cả hai loại đều luộc đến mức bánh phải chìm , rồi nổi nhiều lần (ba chìm bảy nổi) mới vớt ra bày vào đĩa (bánh trôi). Bánh chay thì vớt vào bát đổ nước đường lên trên.

Hai thứ bánh này tuy cùng thứ gạo nhưng bánh trôi nặn nhỏ hơn, nhân đường nên có vị ngon khác hẳn. Bánh chay nhân đỗ, vỏ tráng đường. Chính vì mỗi loại bánh có một hương vị ngon riêng nên nhiều người đã ăn bánh trôi, lại không thể bỏ qua ăn thử bánh chay cổ truyền.

Tháng 3 còn liên quan đến một số hội làng, đặc biệt là hội mẫu Liễu Hạnh. Một số gia đình có người là đệ tử của tín ngưỡng Tam tòa Thánh Mẫu dù có, hoặc không có ban thờ mẫu trong nhà, nhân dịp này cũng sửa lễ, thắp hương tại điện thờ, hay ban thờ ngoài trời, để cầu mong các mẫu âm phù cho sức khỏe dồi dào, việc làm ăn thuận buồm xuôi gió.

2. Sắm lễ

Mâm lễ cúng ngày Tết Hàn Thực gồm: Hương, hoa, trầu cau và 5 (hoặc 3 đĩa) bánh trôi, (3 bát) bánh chay dâng lên bàn thờ.

Sắm lễ

3. Văn khấn Tết Hàn thực

Tết Hàn Thực ngày 3 tháng 3 khi cúng Tổ Tiên thì phải khấn thần ngoại trước, thần nội sau:

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.

- Con kính lạy Hoàng thiên, Hậu Thổ chư vị Tôn thần.

- Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành hoàng, ngài Bản xứ Thổ địa, ngài bản gia Táo quân cùng chư vị Tôn thần.

- Con kính lạy Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Thúc Bá, Đệ Huynh, Cô Di, Tỷ Muội họ nội họ ngoại.

Tín chủ (chúng) con là:......................................................

Ngụ tại:..................

Hôm nay là ngày.............................................................

gặp tiết Hàn Thực, tín chủ con cảm nghĩ thâm ân trời đất, Chư vị Tôn thần, nhờ đức cù lao Tổ tiên, thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, đốt nén tâm hương, dâng lên trước án. Chúng con kính mời ngài Bản cảnh Thành hoàng Chư vị Đại Vương, ngài Bản xứ Thần 11 linh Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân, Ngũ phương, Long Mạch, Tài thần giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật.

Chúng con kính mời các cụ Tổ Khảo, Tổ Tỷ, chư vị Hương linh gia tiên nội ngoại họ ................... cúi xin thương xót con cháu giáng về linh sàng, chứng giám tâm thành thụ hưởng lễ vật.

Tín chủ con lại kính mời các vị vong linh các vị Tiền chủ, Hậu chủ ngụ trong nhà này, đất này đồng lâm án tiền, đồng lai hâm hưởng, phù hộ cho toàn gia chúng con luôn luôn mạnh khoẻ, mọi sự bình an, vạn sự tốt lành, gia đình hòa thuận, trên bảo dưới nghe.

Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

Viết bình luận