Tết Đoan ngọ (Ngày 5 tháng 5) - Sự tích, sắm lễ, văn khấn

Tết Đoan Ngọ là ngày Tết lớn của người Việt Nam được tiến hành vào đúng giờ Ngọ - giữa trưa ngày 5 tháng 5 Âm lịch hàng năm. Người xưa quan niệm rằng: Trong cơ thể con người, nhất là bộ phận tiêu hóa thường có sâu bọ ẩn sống, nếu không diệt trừ thì sâu bọ ngày càng sinh sôi nảy nở gây nguy hại cho con người. Lũ sâu bọ này chỉ lộ diện vào ngày 5 tháng 5 Âm lịch nên phải làm lễ trừ sâu bọ vào ngày này.

Tết Đoan ngọ

Theo quan niệm cổ truyền, có thể giết sâu bọ bằng cách ăn thức ăn, hoa quả, rượu nếp vào ngày 5 tháng 5. Cách diệt sâu bọ trong người như sau: mọi người sáng ngủ dậy không được đặt chân xuống đất, phải súc miệng 3 lần cho sạch sâu bọ, tiếp đó ăn một quả trứng vịt luộc. Rồi bước chân ra khỏi giường ăn một bát rượu nếp cho sâu bọ say, tiếp đó ăn trái cây cho sâu bọ chết.

Có những nơi thì sáng sớm cho trẻ ăn hoa quả, rượu nếp, trứng luộc, bôi hồng hoàng vào thóp đầu, vào ngực, vào rốn để giết sâu bọ. Người lớn thì giết sâu bọ bằng uống rượu hoặc ăn rượu nếp. Trẻ em giết sâu bọ xong khi còn ngồi trên giường, rồi rửa mặt mũi, chân tay xong bắt đầu nhuộm móng tay, móng chân, đeo chỉ ngũ sắc. Em gái đến độ tuổi xâu lỗ tai cũng chọn ngày này mà xâu. Vì là Đoan Ngọ nên cúng Gia tiên phải cúng vào giờ Ngọ. Tục hái thuốc ngày 5 tháng 5 cũng bắt đầu vào giờ Ngọ, đó là giờ có dương khí tốt nhất trong cả năm, lá cây có thu hái được trong giờ đó có tác dụng chữa bệnh tốt, nhất là các chứng ngoại cảm, các chứng âm hư. Người ta hái bất kỳ loại lá gì có sẵn trong vườn, trong vùng, miễn sao đủ trăm loại, nhưng các loại có độc chẳng hạn như: lá ngón, cà độc dược, lá sắn... không được hái.

Tết Đoan Ngọ còn được gọi là tết Đoan Dương, tết Trùng Ngũ hay Trùng Nhĩ. Đoan là mở đầu, Ngọ là giữa trưa, là lúc khí dương đang thịnh... Xét về địa bàn thì Ngọ ở vào phương Nam, mà cung Ngọ thuộc Dương và tháng 5 cũng là tháng Ngọ, do vậy tháng 5 là tháng khí Dương tràn ngập.

Người ta còn gọi tết Đoan Ngọ là tết Trùng Ngũ hay Đoan Ngũ (ngày 5 tháng 5). Do vậy, mà các ngày 1, 2, 3, 4 tháng 5 được gọi Đoan nhất, Đoan nhị, Đoan tam, Đoan tứ.

Ngày 5 tháng 5 khí dương tràn ngập, nhưng lại rất nóng bức, thời tiết mùa oi bức, các bệnh dịch hay phát sinh, do vậy các đền, miếu thường cúng vào mùa hè trừ ôn dịch, còn dân gian thì ngày 5 tháng 5 đi hái lá thuốc về dùng dần. Có người còn lấy xương bồ thái thành từng lát đem ngâm rượu, đem uống trừ ôn dịch trong năm, do vậy dân gian còn gọi tiết Xương bồ hoặc Thiên trung (giờ Ngọ ngày 5 tháng 5). Có nhà còn dùng là ngải phơi khô, tán nhỏ trộn với bột thương truật, xương bồ, quế chi, xuyên khung, bạch chỉ đem rắc mọi nơi trong nhà để trừ dịch, uế tạp.

Có người nhân ngày 5 tháng 5 chế bài thuốc “Bồ đề hoàn” để dùng trong năm. Bài thuốc này ít công phạt, các chứng cảm mạo phong hàn, sốt rét ngã nước, đau bụng hoặc rối loạn tiêu hóa đều dùng được.

Những đồng bào thuộc Hoa Kiều ở Việt Nam, hoặc một số bà con ở thành thị có sự giao lưu với người Hoa, đọc sách “Cổ học tinh hoa” còn gắn tết Đoan Ngọ với kỷ niệm Khuất Nguyên cùng với Lưu Thần Nguyễn Triệu là người Trung Hoa. Những câu chuyện lý thú này lại liên , quan đến một số tình tiết trong lệ tục ngày tết, do vậy cũng cần hiểu lai lịch để suy ngẫm.

1. Sự tích Khuất Nguyên

Khuất Nguyên làm quan Tả đồ nước Sở, dưới triều vua Hoài vương đời Thất quốc (307 - 246 trước Công nguyên). Ông là người chính trực nên bị bọn nịnh thần sàm tấu. Những ý kiến ông tâu trình đều muốn hưng lợi cho đất nước Tnmg Hoa hồi bấy giờ lại bị vua Sở bác bỏ. Có lần Sở Hoài Vương sang Tần, ông can ngăn không được đến nỗi Hoài Vương bị chết ở đất Tần.

Tương Vương kế nghiệp cũng bị bọn gian thần thao túng, bác bỏ những ý trung chính của ông, lại còn bắt ông đi đày.

Trước những nhiễu nhương đáng buồn đó, Khuất Nguyên làm bài thơ Hoài Sa rồi buộc đá vào người trầm mình tự tử, tại sông Mịch La vào ngày 5 tháng 5.

Tương Vương nghe tin mới hối hận, sức cho dân làm cỗ cúng và đem cỗ xẻ xuống sông để ông hưởng. Đêm đến ông báo mộng cho vua rằng, nếu ném cỗ xuống sông thì phải bọc lá bên ngoài và buộc bằng chỉ ngũ sắc, cá tôm mới không ăn được. Từ lời báo mộng đó, nhà vua ban lệnh cho dân. Do vậy mà hàng năm vào ngày 5 tháng 5 có lệ cúng Khuất Nguyên, tưởng niệm một vị đại thần trung chính, lại gói cỗ bằng lá, buộc chỉ ngũ sắc thả xuống sông cho ông hưởng.

Trên sông Mịch La, người nước Sở đã mở hội đua thuyền (như muốn vớt xác Khuất Nguyên), làm cỗ cúng ông tỏ lòng thương tiếc. Và chỉ ngũ sắc sau này trở thành thứ “bùa tui bùa túi” treo cho trẻ em trong tết 5 tháng 5...

2. Chuyện Lưu Thần, Nguyễn Triệu

Đời nhà Hán có hai người Lưu Thần và Nguyễn Triệu, làm nghề thuốc sinh nhai, lại thân thiết như anh em. Nhân ngày tết Đoan Dương hai người rủ nhau vào núi hái thuốc và tình cờ gặp hai tiên nữ, họ nên duyên chồng vợ và không tính đến chuyện hái thuốc nữa.

Nửa năm sau, tuy sống cùng vợ tiên với cảnh quan tuyệt đẹp ở tiên giới, nhưng Lưu Thần, Nguyễn Triệu nhớ nhà da diết nên đòi về làng cũ. Hai tiên nữ ngăn cản mãi không được, đành tiễn chân hai người về làng. Nhưng khi về đến làng cũ thì mọi cảnh đều thay đổi. Vì nửa năm ở cõi tiên bằng mấy trăm năm cõi trần. Hai người bèn tìm lại cõi tiên nhưng không thấy nữa, nên rủ nhau vào rừng không trở về nữa.

Câu chuyện tình của hai chàng Lưu - Nguyễn chỉ có vậy, nhưng đã trở thành thiên tình sử, thành đề tài ngâm vịnh của các thi nhân. Còn dân gian thì lấy việc hái thuốc tiết Đoan Dương gặp may của hai người để tìm một điều may mắn nào đó cho sức khỏe, cho cuộc sống con người trong việc hái thuốc tiết Đoan Dương.

3. Nghi thức cúng lễ và tập tục ngày Đoan Ngọ

Tết Đoan Ngọ đã trở thành Tết truyền thống. Nhà nhà làng làng đều sửa lễ cúng ông bà Tổ tiên, cúng Thần thánh, cúng các vị Tổ sư của nghề. Đặc biệt đây là tết chú ý đến việc bảo vệ sức khỏe của con người. Đó là việc giết sâu bọ, bằng cách ăn rượu nếp làm cho sâu bọ trong người bị say, sâu bọ chết. Họ còn mài thần sa, chu sa cho trẻ uống để chống sự phản ứng trong cơ thể.

3.1 Tắm nước lá mùi

Là tập tục mà các làng quê thường có. Người ta đun lá mùi, lá tía tô, kinh giới, lá sả, lá tre vào chung một nồi, rồi mọi người già trẻ thay nhau múc tắm. Mùa nắng lại tắm nước nóng có lá thơm, mồ hôi toát ra, cảm giác khoan khoái dễ chịu, thơm tho làm cho người ta phấn chấn và có lẽ cũng trị đưỢc cảm mạo, bởi nước lá mùi là vị thuốc Nam.

Tắm nước lá mùi

3.2 Hái thuốc mồng năm

Cây cỏ quanh ta có nhiều thứ trở thành vị thuốc chữa bệnh. Nhưng nếu các loại thảo mộc ấy được hái vào ngày 5 tháng 5, lại đúng vào giờ Ngọ thì tính dược càng được tăng lên, chữa các bệnh cảm mạo, nhức đầu đau xương... sẽ nhanh khỏi hơn. Do vậy dân gian thường hái ngải cứu, đinh lăng, tía tô, kinh giới... đem phơi khô cất đi, khi nào lâm bệnh thì sắc uống..

Hái thuốc mồng năm

Người ta còn lây cây ngải cứu buộc gom thành nắm, ở đầu nhà, trước cửa để trừ tà ma. Thực tế thì hương thơm lá ngải sẽ giúp con người dễ chịu, khoan khoái. Lại có thể giảm bớt nhức đầu, đầy bụng nên khi lấy lá ngày 5, mọi người không thể quên lấy lá ngải cứu.

Giết sâu bọ, hái thuốc ngày 5, tắm nước lá mùi, treo lá ngải cứu trừ tà trong tết Đoan Ngọ, mưu cầu làm cho con người, nhất là thế hệ trẻ khỏe mạnh để duy trì nòi giống, truyền thông của cha ông, người ta còn phòng xa những bất trắc do ma quỷ, rắn rết làm nguy hại đến tính mạng nên tết ngày 5 tháng 5 còn có tục đeo “bùa tui bùa túi”. Đây là thứ bùa ngũ sắc để đeo vào vòng cổ cho trẻ em.

Người ta dùng vải và chỉ ngũ sắc để may, để buộc thành các túm bùa. Một túm hạt mùi, một túm hồng hoàng rồi một số quả như khế, ớt, na... được buộc gộp thành bùa treo vào cổ trẻ em. Phải chăng vì hạt mùi kỵ gió, hồng hoàng kỵ rắn rết, còn các quả để giết sâu bọ, chỉ ngũ sắc là màu sắc của vũ trụ: kim, mộc, thủy, hỏa, thể thường dùng để trừ ma quái, hv vọng sẽ đảm bảo cho thế hệ trẻ được khỏe mạnh, tồn tại và phát triển.

Ấy vậy mà tết ngày 5 tháng 5 còn có tục nhuộm móng tay móng chân cho trẻ, Họ hái lá về giã nhỏ, lấy lá vông đùm từng nhúm rồi buộc vào móng tay, móng chân. Riêng ngón “thần chỉ” là ngón tay trỏ thì không buộc.

Sáng dậy, mở các đầu ngón ra sẽ thây các móng tay, chân đỏ tươi, đẹp mắt.

Ngoài ý nghĩa mĩ thuật của tục nhuộm móng tay, móng chân này còn ẩn dụng ý trừ ma lôi kéo làm hại con người.

Phải chăng từ yêu cầu lấy quả giết sâu bọ, nên người ta đã khảo cây lấy quả. Dân gian quan niệm cây cũng có linh hồn nên những cây “chây lười” không chịu ra quả phải bị khảo. Một người trèo lên cây, một người cầm dao đứng dưới gốc. Người đứng dưới gốc hỏi tại sao cây chậm ra quả và dọa sẽ dùng dao chặt bỏ. Người trên cây van xin sẽ ra quả và ra nhiều quả. Thường thì mỗi dịp này khó giải thích nhưng biết đâu qua việc làm cỏ, phát bớt cành lại kích thích sự ra quả cho cây?

Tết Đoan Ngọ có những nghi thức tập tục độc đáo, gắn với mảnh đất, con người nhiệt đới phương Nam. Đây còn là dịp Tết có những thứ quả, thứ hạt đầu mùa, mà con cháu không thể quên việc cúng dâng Tổ tiên. Một quả dưa hâu, một quả mít, một chùm nhãn, đĩa mận, cân đỗ, đĩa xôi đầu mùa... đều được đưa lên ban cẩn tấu Gia thần, Gia tiên. Và đây lại là những sản phẩm để đi biếu gia đình ông bà nhạc tương lai, đi tết các thầy dạy học, thầy lang, thầy dạy nghề tỏ lòng đền ơn đáp nghĩa. Dân gian còn có lệ tết, biếu lẫn nhau tỏ tình cảm mật thiết bằng hữu, xóm giềng.

Tết Đoan Ngọ giữa mùa dương thịnh, nóng bức nhưng các tục lệ cũng thật dạt dào tình người. Phải chăng cái tình cảm êm thấm này biểu hiện sự nhu, tính âm , khiến cho âm dương giao hòa, tình người gắn bó đã làm tăng thêm ý nghĩa nhân văn cho ngày tết cổ truyền của dân tộc.

Ngày nay mọi người thường liên quan đến các nơi để bẻ lá, hái quả, động đến các sản phẩm do mảnh đất con người làm ra nên thường dùng văn khâu Gia thần, Gia tiên. Có nơi còn lễ bản thổ hội đồng, mời các vị cùng lai hưởng. Tết Đoan Ngọ, trong dân gian có sự truy tư công lao của các Tổ sư, đã dạy bảo cho dân có nghề để kiếm sống. Ngoài việc đi lễ tết đối với người đang sống, người ta còn làm cỗ cúng các Tổ dạy nghề. Lễ vật có hương hoa, oản quả, xôi gà hoặc bánh trái. Nhưng nếu có đồ khéo tức là sản phẩm do Tổ dạy như một mảng chạm, một chiếc làn mây... thì cũng bày lên dâng Tô.

Cúng xong lại đem dùng hoặc để thờ tùy sản phẩm

4. Sắm lễ

Ngày Tết Đoan Ngọ còn gọi là ngày Giết Sâu Bọ. Mâm lễ cúng gia tiên ngày Tết Đoan Ngọ gồm:

- Hương, hoa, vàng mã;

- Nước;

- Rượu nếp;

- Các loại quả: Mận, Hồng xiêm , Dưa hấu, Vải, Chuối...

Sắm lễ

5. Văn khấn ngày Tết Đoan ngọ

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.

- Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.

- Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành hoàng, ngài Bản xứ Thổ địa, ngài bản gia Táo quân cùng chư vị Tôn thần.

- Con kính lạy Tổ tiên, Hiển khảo, Hiển tỷ, chư vị Hương linh (nếu bố mẹ còn sống thì thay bằng Tổ Khảo, Tổ Tỷ).

Tín chủ (chúng) con là:......................................................

Ngụ tại:....................................................................................

Hôm nay là ngày...................................................................

Gặp tiết Đoan Ngọ, chúng con sửa sang hương đăng, sắm sanh lễ vật, hoa hoa, quà trả dâng lên trước án.

Chúng con kính mời ngài Bản cảnh Thành hoàng Chư vị Đại Vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân, Ngũ phương, Long Mạch, Tài thần giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật.

Chúng con kính mời các cụ Tổ Khảo, Tổ Tỷ, chư vị Hương linh gia tiên nội ngoại họ ................... cúi xin thương xót con cháu giáng về linh sàng, chứng giám tâm thành thụ hưởng lễ vật.

Tín chủ con lại kính mời các vị vong linh các vị Tiền chủ, Hậu chủ ngụ trong nhà này, đất này đồng lâm án tiền, đồng lai hâm hưởng, độ cho chúng con thân cung khang thái, bản mệnh bình an. Bốn mùa không hạn ách, tám tiết, hưởng bình an thịnh vượng.

Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

6. Văn khấn Bách nghệ lễ Tiên sư văn

Hôm nay là ngày........... tháng............. năm

Con là... ngụ tại....................................................................

Kính lạy đức... Tổ sư, cùng chư vị Tiên sư

Cảm chiêu cáo vu Tiên sư Tài cao xuất loại,

Trí nại tiên tri

Phạm vi thiên địa nhi bất quá,

Khúc thành vạn vật nhi bất di

Nghệ tuy hữu tinh thô các dị,

Bản đồ tòng chế tác tùy nghi

Tư nhân lệnh tiết

Kính thiết phi nghi

Thượng kỳ giám cách

Tích dĩ hồng hi.

Mặc quyến thân cung khang thái,

Âm phù phúc lý vĩnh tuy

Thực lại Tôn Thần khoan nhân chính trực tài bồi chi lực dã.

Cẩn cáo.

Dịch nghĩa:

Dám xin cáo với Tiên sư Tài hơn so với mọi người

Trí giỏi không biết trước được.

Tạo thành muôn vật đủ mọi thứ cho đời,

Trời đất đắt khuôn chẳng qua là chước lược

Dù tinh dù thô cũng được có nghề.

Chế tác tùy theo ý người sử dụng

Nay nhân tiết lành

Kính bày lễ vật

Tiên sư soi xét

Tấm lòng sắt son

Phù hộ cho gia quyến làm ăn phát đạt, thân thể bình yên, lại thêm lộc, thêm tài hoạch phát.

Muốn trong công đức Tiên sư ban ân giúp đỡ vậy.

Kính cẩn dâng lời.

Viết bình luận