Tục lệ lên chùa lễ Phật
Mục lục nội dung
1. Nguồn gốc sự hình thành tục lệ lên chùa lễ Phật
Đạo phật du nhập vào Việt Nam từ gần hai thiên niên kỷ và được Việt hóa, trở thành quốc giáo, do đó nhiều nơi đều có chùa. Chùa là nơi thờ Phật, đình đền, miếu, phủ thờ Thánh, thờ Thần (kể cả dương Thần, âm Thần, cũng như Thần Thiên Nhiên) và đại bộ phận phủ thờ âm Thần. Ấy vậy mà chùa lại thờ cả Thánh, cả Mẩu... Sự thờ phụng vừa khác vừa giống nhau, nói khác đi là sự phối thời một cách rộng rãi khiến chúng ta phải suy ngẫm về tục thờ, về văn hóa tín ngưỡng của Việt Nam.
Nếu như ở mảnh đất Phương Nam, nhất là đồng bằng sông Cửu Long thờ Phật theo phái “Tiểu thừa”, đức Phật A di đà ngự trị Phật điện là chính thì các chùa ở miền Trung nhất là miền Bắc lại phụng sự theo phái “Đại thừa” (độ cho người trước, độ cho mình sau) và trên Tam bảo có cả 5 giai đoạn: quá khứ, hiện tại, vi lai, cả lúc sơ sinh cũng như trên cõi Niết bàn của Đức Phật. Bên cạnh chư vị Thế tôn còn có các vị Bồ Tát nam đà, Ca Diếp, Văn Thù, Phổ Hiền, Quan thế âm, Đại thế chí. Lại có cả Thiện hữu Thái tử, Thể địa Thánh tăng, Đức ông, các Tổ... các vị vua ông Thánh có công với chùa, hoặc đi tu cũng được thờ ở Tam bảo, hay hậu điện, khiến tính chất Phật giáo ở Việt Nam có khác cội nguồn ở Ấn Độ. Việc Tứ vị Pháp Vương Phật là Vân, Vũ, Lôi, Điện rồi khi Tam giáo đồng nguyên thờ cả Nho giáo, Lão giáo càng chứng tỏ đặc thù Phật giáo Việt Nam là sự dung hợp giữa Phật, Thánh, Thần, Tiên và cả người, cả trời, cả đất. Người là ngôi chùa không chỉ là nơi hướng thiện “Từ bi hỷ xả ” mà còn là nơi truy tư công đức, nơi cầu xin để đạt được các sở nguyện đời thường, cũng như khi về cõi vĩnh hằng. Và bởi sự dung hợp đó mà khách hành hương khi đến chùa bị choáng ngợp trước tượng pháp, ban này, ban khác, cung nọ cung kia khó định được giá trị nhân văn của sự tôn thờ.
Phật giáo nhìn nhận thế giới tự nhiên, xã hội bằng mối liên hệ nhân - quả. Theo phật giáo, nhân - quả là một chuỗi liên tục, không gián đoạn và không có hỗn loạn, có nghĩa là nhân nào quả ấy. Môi quan hệ này Phật giáo thường gọi là nhân duyên với ý nghĩa rằng một kết quả của nguyên nhân nào đó sẽ là nguyên nhân của một kết cục khác.
Việc lễ chùa hiện nay đã trở thành nét đẹp trong văn hóa tinh thần thường nhật của nhân dân. Từ thành thị đến nông thôn, các ngày sóc, vong bà con thường rủ nhau đến chùa lễ Phật. Các lễ tiết trong năm , mọi người cúng lễ ở nhà nhưng cũng không quên lên chùa lễ Phật. Các cụ già làng còn lo làm lễ cầu an ở chùa cho dân, lo làm lễ cầu mát khi vào hè cho dân, hoặc làm lễ dâng sao, trừ ôn dịch, sâu bọ phá hoại mùa màng. Xưa kia khi hạn hán kéo dài, quan lại và các kỳ hào còn đến chùa thờ Tứ Pháp làm lễ đảo vũ để cho dân có nước cấy cày, cho cỏ cây tươi tốt...
Phật giáo Việt Nam còn hết sức linh hoạt. Người Việt vốn có đầu óc thực tế, coi trọng việc sống phúc đức, trung thực hơn là đi chùa; do vậy coi trọng việc tu tại gia, hiếu kính với ông bà, cha mẹ hơn là thờ Phật. Khi vào Việt Nam, đức Phật được đồng nhất với các vị thần trong tín ngưỡng truyền thông, có khả năng cứu giúp mọi người, thoát mọi tai hoạ, làm nên mây, mưa, sấm, chớp để mùa màng tốt tươi, ban cho người hiếm muộn có con, ban lộc cho người bình dân để quanh năm làm ăn phát đạt, cứu hộ cho người chết được siêu thoát. Do vậy, ở Việt Nam thường có tục đi chùa cầu tự, đi chùa hái lộc lúc giao thừa, tục mời nhà sư đến cầu siêu cho người qua đời...
Những việc làm trên xem chừng thiếu khoa học, nhưng lại đầy thiện tâm. Có cái phi lý, lại có chỗ hợp lý, khiến dân gian vẫn gửi gắm niềm tin. Và cũng bởi niềm tin chính đáng đó nên không ai cản phá, mà cũng khó lòng xóa đi đời sống tinh thần của đông đảo nhân dân, vốn dĩ từ ngàn xưa để lại.
Một số bà con ở thành thị, hoặc nông thôn có điều kiện kinh tế khá giả còn tổ chức đi vãn cảnh chùa, đi lễ Phật ở các chùa cảnh thuộc danh sơn cổ tích như chùa Hương Tích, chùa Tây Phương (Hà Nội). Chùa Tây Thiên (Phú Thọ) chùa Trân Quốc, chùa Đọi Sơn, chùa Ông, chùa bà Đanh, chùa Trịnh Tiết, chùa Quế Lâm (Hà Nam), chùa Bích Động, chùa Địch Lộng (Ninh Bình), chùa Tháp Phổ Minh, chùa Keo Hàng Thiện, chùa Bi, chùa Cổ Lễ, chùa Lương, chùa Phúc Hải, chùa Ninh Cường... (Nam Định), chùa Keo (Vũ Thư), chùa Phúc Lâm, chùa An Cố (Thái Bình), khu danh sơn Yên Tử (Quảng Ninh), chùa Côn Sơn (Hải Dương), chùa Dâu và trung tâm Luy Lâu, chùa Keo (Bắc Ninh), chùa tượng Sơn (Hà Tĩnh), chùa Sư Nữ (Nghệ An), chùa Thiên Mụ (Huế), chùa Tây An (Núi Sam An Giang), chùa Phước Lâm (Thị Xã Tây Ninh), chùa Giác Lâm (quận tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh)...
Mọi người ái mộ đạo Phật và đến với Phật giáo bằng tấm lòng từ thiện, hy vọng sẽ gặt hái được mọi sự tốt lành theo thuyết “Nhân nào quả ấy ”. Mọi khổ hạnh cũng như hoan lạc đến với con người không phải do khách quan mà do chính con người hiện tại, hoặc quá khứ đã tạo ra. Do vậy, để góp phần suy ngẫm về đạo Phật, về giáo lý cũng như tính nhân bản cao đẹp của đạo, xin khái quát một số nét về đức Phật, để mọi người hiểu thêm về giáo lý cũng như tính nhân bản cao đẹp của đạo, hiểu thêm về chân tướng cũng như chân lý, từ đó mà tạo ra lý trí, tránh mọi hành vi hoang đường, có nhận thức đúng về thực tại, ngẫm mà giác ngộ cũng như giải thoát mọi sự đau khổ, sợ hãi, đem niềm vui hạnh phúc về cho bản thân cũng như gia đình, xã hội.
Vậy lịch sử đức Phật ra sao, vị trí thờ tự thế nào, xin lần lượt trình bày sơ lược qua cách thức bài trí tôn thờ cũng như hệ thống tượng pháp dưới đây.
Theo sách Phật giáo phổ thông, cùng một số tư liệu thì đức Phật là con vua Tịnh Phạm (Sudhođana) ở phía Bắc xứ Ấn Độ, gần núi Hy Mã Lạp Sơn (nay là nước Nepal). Mọi người họ Thích ca (Cakya), nên sau gọi Thích Ca Mâu Ni Phật. Lúc sơ sinh người được đặt tên là Tất Đạt Đa (Siddharta). Thái Tử Tất Đạt Đa mới chào đời được 7 ngày thì mẹ là Hoàng hậu Ma-gia tạ thế, em bà là Ma Ha Ba Xà Ba Đề thay chị nuôi dưỡng Thái tử đến khi khôn lớn.
Thuở ấy đất nước Ấn Độ có 5 đẳng cấp xã hội. Ba lớp người thuộc Bà la Môn giáo, cùng vua chúa, quý tộc và thương gia, chủ điền mặc sức đàn áp hai đẳng cấp dưới, khiến con người vô cùng cực khổ. Trước sự bất công, tàn nhẫn quá đáng, Thái tử Tất Đạt Đa buồn phiền đồng thời nhìn nhận rõ sự dối trá, vô thường của xã hội. Vua cha thấy Thái tử suy tư âu sầu, đã tìm đủ cách để mua vui, lại còn cưới cho Thái tử người vợ tuyệt đẹp, ấy vậy mà Thái tử vẫn chán chường thế sự.
Năm 19 tuổi, Thái tử quyết bỏ hoàng cung, từ giã phụ vương, vợ hiền, con nhỏ cùng cung điện nguy nga, dấn thân vào vòng khổ ải, tìm phương cứu độ cho chúng sinh. Sau 6 năm tu hành khổ cực ở núi Tuyết mà vẫn chưa giác ngộ, cuối cùng ngài ngồi thiền định dưới gốc cây Bồ đề 49 ngày, mới đại ngộ chân lý vũ trụ, cũng như nguồn gốc sinh tử của chúng sinh. Và như vậy ngài đã thành Phật, với hiệu thích Ca Mâu Ni Phật (Cakya Muni). Và sau đó, suốt thời gian 49 năm ngài đi nhiều nơi giáo hóa chúng sinh, không phân biệt sang hèn, chủng tộc, mong giải thoát bể khổ cho mọi người. Năm 544 (trước tây lịch) ngài 80 tuổi, ngài từ giã cõi đời một cách thanh thản, sau khi di chúc cặn kẽ chí nguyện của mình cho các đệ tử, mong có sự “truyền đăng ” mãi mãi về sau.
2. Hệ tượng pháp chính ở Chùa
Để biểu thị đức độ cao siêu, hy sinh bản thân vì việc cứu giúp nhân loại, người ta đã tạo hệ tượng pháp để người đời nhìn vào mà tu thân.
2.1 Tượng Tam thế
Thường đặt ở vị trí cao nhất. Ba pho này kích cỡ như nhau, đều ngồi tĩnh tọa trên tòa sen, là những biểu tượng cao đẹp của ba thời kỳ tu hành: Quá khứ, hiện tại, vị lai ma thời quá khứ là Đức A Di Đà hiện tại là Đức Thế Tôn mâu ni (Phật Thích Ca), kiếp tương lai là đức Di Lặc. Và phần lớn các chùa đều có bộ tượng này.
Tượng Tam Thế còn được gọi là Tam Thân, nghĩa là ba đời, hay ba kiếp Phật để cứu vớt, tế độ cho chúng sinh.
2.2 Bộ tượng Di Đà Tam Tôn
Thường đặt hàng thứ hai của Phật điện. Chính giữa là tượng A Di Đà, đức Phật thời quá khứ với truyền thuyết là thời kỳ cực lạc, chúng sinh toại nguyện, cầu được ước thấy. Hai bên thường là tượng Quan Thế Âm (nhìn thấu khắp dương gian cũng như cõi âm) và tượng Đại Thế Chí là vị Bồ Tát có sức mạnh vô biên để cứu độ chúng sinh.
2.3 Bộ tượng Thích Ca Tam Tôn
Đặt hàng thứ ba. Chính giữa là tượng đức Phật Thích Ca ngồi trên tòa sen, theo thế tĩnh tọa như Phật A Di Đà, hoặc tay cầm cành hoa sen, hay bắt ấn (Thích Ca niêm hoa, Thích Ca chuyển pháp). Hai bên thường có tượng Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Phổ Hiền cưỡi thanh sư và bạch tượng. Nghĩa là một người cưỡi sư tử xanh, một người cưỡi voi trắng. Đây là hai vị trợ lý giúp đức Phật hoằng pháp, giáo hóa chúng sinh.
Văn khấn Phật Thích ca
Nam mô A di đà Phật!
Nam mô A di đà Phật!
Nam mô A di đà Phật!
Nam mô Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Đông Phương giáo chủ tiêu tai duyên thọ
Nam mô Dược sư Lưu Ly Quang Vương Phật
Nam mô Đại từ Đại bi cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát
Hôm nay ngày... tháng... năm ... (âm lịch)
Tín chủ con là ......................................................................
Ngụ tại.....................................................................................
Chúng con nhất tâm thành kính, lễ bạc dâng lên trước Phật điện tại chùa ............
Nguyện cầu các chư Phật, chư Đại Bồ Tát, chư vị Hiền thánh, Tăng, Hộ Pháp thiện thần, Thiên Long Bát Bộ....
Rủ lòng từ bi
Phù hộ độ trì
Chứng minh công đức
Cứu khổ cứu nạn
Ban lộc phát tài
Già trẻ gái trai, bình yên mạnh khoẻ
Tâm thành lễ bạc, gặp được thiên duyên
Gia sự chu truyền, âm êm hạnh phúc
Điều lành luôn tới, điều xấu qua đi
Nhờ lượng từ bi, mong cầu như nguyệt
Cẩn nguyện.
2.4 Tượng Di Lặc
Được đặt dưới bộ tượng Thích Ca Tam Tôn: Phật Di Lặc biểu tưỢng ở giai đoạn tương lai, con người hết lo âu, sầu não nên được toại nguyện. Người đẫy đà, béo tốt đến nỗi bụng to không cài được cúc áo. Dân gian thường gọi vị này là nhịn mặc mà ăn nhưng vì là vị Phật tương lai nên chưa hình thành bộ ba (Tam tôn) như các bộ tượng trên. Do vậy, tùy theo số lượng tượng pháp mà bày hai bên. Một số chùa hay bày “Quan âm Tọa sơn’’, “Quan âm tống tử ” ở hai bên tả, hữu đức Di lặc.
2.5 Tượng Phật Niết Bàn
Pho tượng này có nơi đặt dưới bệ tượng Di Lặc, có nơi đặt vào xung sau hoặc đặt tượng Di Lặc. Tượng Phật trên cõi Niết bàn tức là hình tượng Thích Ca Mâu Ni xa lánh cõi đời. Tượng tạo theo thế nằm nghiêng, một tay duỗi rất thoải mái, như tâm tư của ngài thoải mái lúc ra đi vậy!
2.6 Bộ tượng Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu
Phía dưới tượng Phật Niết bàn là tượng Ngọc Hoàng đầu đội mũ bình thiên, hai bàn tay nâng hốt oai vệ. Hai bên có tượng Nam Tào tinh quân và Bắc Đẩu tinh quân, tay cầm sổ ghi chép việc sinh, tử cho nhân gian.
2.7 Tòa Cửu Long
Phía dưới Ngọc Hoàng là tòa Cửu Long. Tòa này gồm 9 con rồng uốn lượn tạo nên vòm trời và giữa là hình tượng đức Phật lúc sơ sinh, một tay che trời, một tay chỉ đất “Thiên thượng, địa hạ, duy ngã độc tôn”.
Tòa Cửu Long được tạc theo nhiều kiểu. Có nơi hệ thống 9 con rồng như đang phun nước rất sinh động. Có nơi gắn theo nhiều bộ tượng nhỏ như Tam Thế, Di Đà tam tôn, tứ vị Bồ Tát, bát vị Kim cương... Có nơi gắn với các bộ tượng đang đánh đàn, thổi sáo như cảnh tượng thần tiên... Hai bên tòa Cửu Long còn có tượng Thổ địa râu tóc bạc phơ, Thánh tăng đội mũ tỳ lư - là người phụng đạo bên cạnh Phật. Và có cả Kim Đồng hay Ngọc Nữ đứng hầu hai bên.
Tòa bên ngoài Phật điện (tam bảo) là bái đường thường to hơn và nằm ngang, tạo lối giao mái bắt vần. Gian giữa là ban thờ chung (công đồng), thường chỉ có bát hương và là ban đặt lễ. Hai bên có tượng Hộ Pháp với kích cỡ rất lớn, thường ngồi trên lưng con sấu. Một vị mặc áo giáp, mắt mở to, mặt đỏ, tay cầm đại đao như để trừng trị những kẻ làm điều ác. Dân gian gọi đây là pho tượng “ác hữu thái tử ”, hay nôm na là ông ác. Thực ra hình tượng này là để trừng ác, bảo vệ cho đạo Phật được mãi mãi tồn tại.
Pho bên kia cũng kích cỡ tương đương, mặc áo giáp uy nghiêm nhưng vẻ mặt rất hiền, sắc trắng, tay cầm hạt ngọc như ý, tay kia cầm gậy trúc. Dân gian gọi đây là Thiện hữu Thái tử, hay ông Thiện, ý muốn răn đời nếu làm điều thiện sẽ được ngọc quý, còn nếu làm điều ác sẽ bị trừng trị.
2.8 Tượng A Nan Đà Bồ Tát
Pho tượng này còn được gọi là Thánh Hiền. A nan đà bồ tát làm phận sự tế độ cho chúng sinh. Một tay cầm chén nước “cam lộ ” một tay cầm cành dương, hoặc như búng ngón tay, với ý nghĩa là nhúng nước từ bi cõi Phật để cứu vớt mọi người.
Ban thờ A nan đà thường có hai pho tượng nhỏ hơn đứng hai bên. Một pho vẻ nhân từ, một pho vẻ hung dữ đang múa võ. Phải chăng đây là các thần giúp bồ tát tập hợp cô hồn, cũng như giữ trật tự khi được bố thí lễ vật, hoặc tiền, vàng (hai pho nói trên là La Sát và Tiêu Diện đại sĩ).
Tại ban này trong ngày 15 tháng 7 thường có cúng cháo lá đa, cùng với cơm nắm, ngô rang... để đức Thánh Hiền phân phát cho các vong linh không nơi nương tựa.
2.9 Tượng Đức Ông
Tượng Đức Ông thường đặt đối xứng với tượng Thánh Hiền. Dân gian còn gọi đây là Đức Chúa. Điều đặc biệt là vị này thường được các triều đại phong sắc là “Thập bát Long thần ”. Truyền thuyết kể về Đức Ông như sau:
Đức Ông tên là Cấp Cô Độc, còn gọi Tu Đạt, là người nước Xá Vệ. Ông hâm mộ đạo Phật, nên bỏ tiền mua vườn đất để xây dựng tịnh xá tu thiền. Lại thỉnh mời Phật Thích Ca cùng chư tăng về giáo hóa cho chúng sinh. Bởi ông là người có công xây dựng chùa, trông nom chùa nên dân gian khi lập chùa thờ Phật đều tạc tượng ông để thờ, lại coi ông là người quản lý chùa cảnh. Nên khi vào chùa lễ Phật, mọi người đều làm lễ ban Đức ông, như để báo cáo và mong Đức Ông đại xá cho những lỗi lầm.
Văn khấn Đức Ông
Nam mô A di đà Phật!
Nam mô A di đà Phật!
Nam mô A di đà Phật!
Kính lạy Đức Ông Tu Đạt tôn giả, Thập bát Long thần Gia Lam chân tể.
Hôm nay là ngày... tháng... năm ...
Tín chủ là... đồng gia quyến ngụ tại...
Kính lạy Đức ông, gia quyến chúng con, thành tâm kính lễ, hương hoa vật phẩm, gọi chút lòng thành, mong ngài soi xét.
Trộm nghĩ:
Chúng con sinh nơi trần tục,
Tránh sao được sự lỗi lầm.
Trước Phật đường sám hối ăn năn,
Kính mong đức Già lam chân tể.
Mở lòng tế độ, che chở chúng con
Làm ăn thuận lợi trong năm
Tiêu trừ bệnh tật tai ương
Vui hưởng lộc tài may mắn.
Cúi mong ngài: Chấp lễ chấp bái, chấp kêu chấp cầu
Dãi tấm lòng thành, xin ngài phù hộ
Nam mô A di đà Phật!
Nam mô A di đà Phật!
Nam mô A di đà Phật!
(Vái 3 vái)
Trong nội tự còn có khu nhà tổ thờ Tổ Đạt Ma (Tổ Tông) là tổ truyền giáo sang Việt Nam, thờ các sư tổ của chùa. Nhiều nơi đặt tượng Địa Tạng Bồ Tát ở một gian trong nhà tể (có nơi đặt tại bái đường chùa).
2.10 Địa Tạng Bồ Tát
Địa Tạng thường tạc theo thế đứng, đầu đội mũ thất phật (hay cánh mũ có hình bảy vị Phật), mặc áo cà sa, tay phải cầm gậy tích trượng, tay trái cầm ngọc minh châu. Có nơi tạc ngồi trên tòa sen, hoặc ngồi ư ê n lưng thú (như con sấu).
Ban này thường làm lễ cầu siêu, nhờ đức Địa Tạng tiếp linh cho hương linh của các tín chủ được nương nhờ dưới bóng Phật. Có truyền thuyết còn cho đức Địa Tạng là giáo chủ nơi U minh (cõi âm).
Văn khấn Đức Địa Tạng Bồ Tát
Nam mô A di đà Phật
Nam mô đại từ, đại bi bản tôn Địa Tạng Vương bồ tát
Hôm nay là ngày.......tháng ...........năm .............................
Tín chủ con là... đồng gia quyến đẳng.
Ngụ tại.....................................................................................
Thành tâm cúi lạy trước Phật đài, kính dâng hương hoa phẩm vật, Cung thỉnh Bồ Tát đại từ, đại bi, giáng lâm giáng phúc cho tín chủ.
Bái đảo đại đức giáo chủ U minh,
Phật phó chúc nơi cung trời Đạo lợi.
Chở che cho gia quyến chúng con,
Như mẹ hiền phù trì con đỏ.
Nhờ ánh ngọc Minh Châu trừ hạn ách,
Mây từ che chở trí tuệ hanh thông Tâm đạo khai hoa não phiền nhẹ bớt.
Lúc đang sống một lòng thiện niêm ,
Theo gương Đại sĩ tế độ chúng sinh.
Khi vận hạn được ơn cứu độ,
Của Bồ Tát cùng chư vị Thần linh.
Lúc lâm chung vượt cõi u đồ
Lại được tái sinh, lên cõi thiện.
Cúi mong Bồ Tát tế độ cho Hương linh Gia tiên
Cõi u minh hết thảy đều siêu thoát.
Nhất tâm bày tỏ tấc lòng,
Cung trần cầu xin giám cách
Nam mô A di đà Phật!
Nam mô A di đà Phật!
Nam mô A di đà Phật
(Vái 3 vái)
Một số chùa to, cảnh lớn còn có cả hệ thống “Bát bộ kim cương”, là những thần nhân nguyện đem thần lực hộ trì cho Phật pháp và có tứ vị Bồ Tát là ái Bồ Tát, Sách Bồ Tát, Ngữ Bồ Tát và Quyền Bồ Tát.
Một số chùa có hệ thống Thập điện, tức là các vị Diêm Vương. Bộ tượng này thường thờ hai bên trong Tam Bảo hay Bái Đường. Các vị Diêm Vương trông coi hình ngục ở âm phủ để hành tội vong linh và dân gian vẫn truyền tụng các vị Diêm Vương gồm có:
1. Tần Quảng Minh Vương
2. Sở Giang Minh
3. Tống Đế Minh Vương
4. Ngũ Quan Minh Vương
5. Diêm La Minh Vương
6. Biến Thành Minh Vương
7. Thái Sơn Minh Vương
8. Bình Chính Minh Vương
9. Đô Thị Minh Vương
10. Chuyển Luân Minh Vương
Một số chùa không làm tượng mà vẽ thành 10 cửa điện, hoặc làm 10 phù điêu, diễn tả ngục hình rất ghê sợ: như ném người vào vạc dầu, cắt đầu, cưa chân, cho thú dữ cắn... Phải chăng đây là hình thức răn đời giúp nhân loại tránh những hành vi độc ác, để khi chết không phải rơi vào ngục hình thảm khốc.
Lại có chùa có cả bộ tượng La Hán với giá trị nghệ thuật cổ truyền độc đáo và đặt ở hai bên hành lang chùa Thập bát La Hán thường thấy như sau:
Tổ thứ I
Ma ha già điệp, tượng đứng, một tay chống gậy trúc, một tay cầm sách.
Tổ thứ II
A nan vương, ngồi co một chân, hay tay cầm cuốn sách tì lên gối.
Tổ thứ III
Thương ma hòa tụ, ngồi tì khuỷu tay lên gốc cây, tay phải để trên đầu gối.
Tổ thứ IV
Ưu ba cúc đa, ngồi đọc sách trên đống lá, cạnh gốc cây.
Tổ thứ V
Đề đa già, ngồi bó gối trên hòn đá, ngửa mặt lên trời.
Tổ thứ VI
Di đà già, đứng chống gậy trúc, vẻ mặt tươi cười, đang nói chuyện với tiểu đồng (bưng hồ rượu).
Tổ thứ VII
Bà tu mật, đứng chắp tay, ngửa mặt, trước một lư trầm .
Tổ thứ VIII
Phật đà nan đề, ngồi ngoáy tai bên gốc liễu, người to béo, bụng phệ, áo hở ngực, co một chân, vẻ mặt tươi cười.
Tổ thứ IX
Phúc đà mật đa, ngồi xếp bằng cạnh lư hương, lô trầm , tay phải cầm gậy trúc, tay trái tì lên bệ.
Tổ thứ X
Hiệp tôn giả, đứng chéo chân, hai tay tì lên chân cây tùng, có một tiểu đồng đang chắp tay.
Tổ thứ XI
Phú na đa xa, ngồi co một chân, tay đặt lên đầu gối, phía trước có một người đang làm lễ.
Tổ thứ XII
Mã minh ba la, ngồi ngửa mặt nhìn con rồng, có râu quai nón.
Tổ thứ XIII
Già bì ma la, tượng đứng, có rắn quấn ngang lưng.
Tổ thứ XIV
Long thụ tôn giả, ngồi nhập định trên bông hoa sen (dưới là nước), trước mặt có rồng chầu.
Tổ thứ XV
Gia na đề bà, ngồi bên gốc tùng, tay trái giơ ngang ngực, ngửa mặt.
Tổ thứ XVI
La hầu la đa, ngồi bên con hươu quỳ, đầu chịt khăn, tay cầm gậy trúc.
Tổ thứ XVII
Tăng già nan đề, ngồi co một chân, hai tay đặt lên đầu gối, tỳ cằm lên tay, lưng khom, vẻ mặt tươi cười.
Tổ thứ XVIII
Già đa đa xá, tượng đứng, đặt gậy trúc lên vai, gánh chiếc hòm nhỏ, tay phải tỳ ngang gậy, tay trái cầm một vật như bánh xe.
Mười tám vị La Hán mỗi vị một vẻ, một tâm tư nhưng đều lạc quan, ngẫm sự thế trần gian. Bộ La Hán không giống chùa Tây Phương, số lượng La Hán cũng ít hơn chùa Tây Phương, khiến phải suy ngẫm sự đa dạng phong phú của hệ thống tượng pháp chùa.
Ấy vậy mà các chùa Pháp Vân, bà Đanh, chùa Quế Lâm... còn thờ Tứ Pháp vương Phật. Các chùa Keo, cổ Lễ, chùa Bi, chùa Thầy... còn thờ Tam Thánh: Từ Đạo Hạnh, Không Lộ Thiền sư, Giác Hải thiền sư. Các chùa Yên Tử, Phổ Minh, Côn Sơn thờ Trúc Lâm tam tổ. Chùa Giám thờ Tuệ Tĩnh, chùa Tượng Sơn thờ Hải thượng Lãn ông Lê Hữu Trác, chùa Long Phú (quận Phú Nhuận thành phố Hồ Chí Minh) thờ ông Địa (Thần tài).
Chưa tính sự phối thờ đan xen, mà số lượng tượng pháp ở chùa đã nhiều. Chùa ít cũng một vài chục vị. Chùa vào dạng danh lam cổ tích có tới năm , bảy chục vị. Do vậy việc dâng hương không thể lễ hết từng vị, mà người ta khấn vái vài ba nơi, hoặc khấn tại ban công đồng. Dân gian đã làm bài sớ tâu cầu được bình yên.
Sớ văn cầu an để lễ tại Công Đồng
Lễ Phật kỳ an sớ
Phục dĩ:
Phú thọ khang ninh
Nãi nhân tâm chi sở nguyện
Tai ương hạn ách bằng pháp lực dĩ giải trừ.
Nhất niệm chỉ thành
Thập phương cảm cánh.
Viên hữu Việt Nam quốc
Tỉnh............ huyện............xã........ thôn..............
Y vu linh tự cư.......................................................
Phụng Phật thánh cúng dàng
Xuân thiên thượng sớ, giải hạn kỳ an
Cầu tài diên sinh sự.
Kim thần tín chủ..................................................
Hợp đồng gia đẳng.
Tức nhật ngưỡng can tuệ nhãn
Phủ giám phàm tâm, ngôn niệm thần đẳng.
Sinh cư dương thế, số tại thiên cung Hạ càn khôn phú tái chi ân,
Cảm Phật Thánh phù trì chi lực
Hành tàng hoặc hữu quai vi
Xuất nhập năng vô quá cữu
Phi tương lễ vật cụ trần
Hạt đắc bình minh thịnh chí
Cung duy
Nam mô thập phương vô lượng chư Phật thường trụ tam bảo, Kim liên tọa hạ.
Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn, tầm thanh linh cảm, Nam hải quan thế âm Bồ tát, Hồng liên tọa hạ.
Tam giới thiên chúa tứ phủ vạn linh Công đồng thánh đế, Ngọc bệ hạ.
Đương niên hành khiển, chư nguyệt nhật thời Tôn thần, vị tiền:
Bản mạnh chính chiếu liệt vị tinh quân, bản mạnh liệt vị quyền cai công chúa, vị tiền.
Bản tự thập bát Long thần Già Lam chân tể, vị tiền.
Cung vọng chư tôn, thùy tình lân mẫn, chiếu giám tấu văn. Phục nguyện đức đại khuông phù, ân hoằng tế độ, công minh chính trực đại khai vũ lộ chi lương thầm, xá quá tiêu khiên quảng bá hà sa chi diễm phúc. Tỷ thần đẳng gia môn hanh thái, mạnh vi khang cường, canh sừ thương mại tứ thì vô họa hoạn chi ngu, học tập ngôn hành bát tiết hữu trinh tường chi triệu. Nhất ý thành cầu, vạn ban quả toại. Đãn thần hạ tình vô nhâm khích thiết bình dinh chi chí - cẩn sớ.
Thiên vận... niên, nguyệt, nhật. Tín chủ thành tâm cụ tấu.
Dịch nghĩa
Sớ lễ Phật cầu được bình yên
Cúi xin thưa rằng:
Giàu có, sống lâu và yên vui
Là sở nguyện của con người.
Vận hạn, tai họa trông vào pháp Phật giải thoát
Dốc lòng tụng niệm , động đến mười phương.
Nay tại nước Việt Nam tỉnh......... huyện......... xã…….thôn……..
Tại chùa thiêng…….
Phụng sự Phật, Thánh có lễ dâng cúng.
Ngày xuân dâng lên sớ tấu, cầu cho hết nạn được bình yên.
Cầu tài lại mong được trường thọ.
Nay tín chủ tôi là... cùng cả nhà trên dưới
Ngày ngày ngửa trông chư vị Phật, Thánh thông sáng
Thấu tỏ cho lòng dạ chúng con, miệng niệm cầu xin.
Bởi lẽ chúng con sinh nơi trần thế,
Nhưng số kiếp tại cung trời.
Cúi trông trời đất che chở gia ân.
Kính mong Phật, Thánh phù trì bằng pháp lực.
Trong cuộc sống chắc có sự sơ suất.
Ra vào không tránh khỏi lỗi lầm.
Nay xin được kính dâng lễ vật,
Cầu mong sao được sự bình an.
Nay cung kính.
Nam mô thập phương vô lượng chư Phật
Thường trụ tam bảo. Kim liên tọa hạ
Nam mô đại từ bi cứu khổ cứu nạn, tầm thanh linh cảm, Nam Hải Quan Thế âm Bồ Tát, Hồng liên tọa hạ
Tam giới thiên chúa, tứ phải vạn linh Công đồng thánh đế, Ngọc bệ hạ.
Đương niên hành khiển, chư nguyệt nhật thời Tôn thần vị tiền.
Bản mạnh chính chiếu liệt vi tinh quân,
Bản mạnh liệt vị quyền cai công chúa, vị tiền.
Bản tự thập bát long thần Già lam chân tể, vị tiền.
Kính xin chư vị Tôn thần mở lòng thương xót.
Chấp nhận tấu văn, mong đức lớn khuông phù.
Mở lòng cứu giúp, chính trực công minh.
Giúp chúng con có đường đi lương thiện.
Bỏ qua lầm lỗi, ban cho phúc đẹp, điềm lành.
Cho gia đình con được thịnh vượng.
Bản thân con sức khỏe dồi dào
Bốn mùa làm ăn, buôn bán không lo hoạn nạn.
Tám tiết lời nói việc làm được tôt đẹp rõ ràng.
Một dạ cầu xin muôn điều toại nguyện.
Chúng con vô cùng lo sợ, cẩn trọng làm sớ văn... năm ... tháng... ngày.
Tín chủ thành tâm dâng tấu.
Nói đến chùa, tất mọi người đều rõ chính là nơi thờ Phật, còn việc thờ các vị khác chẳng qua là phôi thờ, phôi thờ lại không phải là phổ biến, chùa có chùa không. Bởi vậy đến chùa thấy chư vị tăng ni, mọi người đều chào bằng câu A di đà Phật, tức là đọc duệ hiệu đức Phật thời quá khứ. Khi đến chùa lễ Phật, tụng kinh đều dùng chữ “Nam mô” hay “Nam vô A di đà Phật”. Nam là phương Nam, vô còn đọc là mô, tiếng Phạn là Nam am a nghĩa là cung kính, quy y. Nam mô hay Nam vô A di đà Phật là cung kính đức Phật A di đà.
Đạo Phật còn gọi đạo Thiền. Các vị sư nổi tiếng thường được gọi Thiền sư, ngồi để tĩnh tâm còn gợi Thiền định. Vậy chữ Thiền ở đây là một phép tu căn bản của Phật giáo. Ngồi Thiền để được tĩnh tâm, để chống những khủng hoảng tinh thần, chống những ô nhiễm về tinh thần để mở ra lối thoát, chống sự phiền não trong người.
Riêng lĩnh vực tượng pháp bài trí ở chùa Việt Nam thì thật phong phú. Mặc dù thời gian, chiến tranh đã tàn phá bình địa nhiều nơi cổ tự. Nhưng với những tượng Phật bằng đá hiện tồn tại, cũng như nhờ khai quật khảo cổ học ở nhiều nơi và ở chùa Long Dọi Hà Nam, Tháp chùa Chương Sơn, Nam Định về di sản thời Lý. Hàng loạt bệ đá hoa sen thời Trần, hàng loạt văn bia thế kỷ XV, XVI, XVII, cho biết về tượng pháp bài trí ở Phật điện như tượng A di đà, Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, tượng Thích Ca lúc sơ sinh, rồi các pho Ngọc Hoàng Nam tào, Bắc đẩu, tượng La Hán, Bồ Tát, Ngọc Nữ, Kim Đồng, Quan Âm Nam Hải, tượng Long thần, Trưởng giả, Kim cương, Hộ pháp, Thổ địa, Phạm Thiên, Đế Thích... Lại cả tượng Cô hồn, Khổng Tử, Lão Tử... khiến chúng ta phải khẳng định việc thờ tự ở chùa với các tượng pháp Phật điện là rất phong phú và có từ lâu đời. Nhưng vì thời gian và sự bảo tồn hạn chế nên nhiều chùa hiện tại bài trí khá đơn sơ, chắp vá. Các chùa lớn, quy mô cũng còn thiếu tượng pháp. Tuy vậy, xin đơn cử sự bài trí ở một ngôi chùa để độc giả tham khảo khi đi hành hương lễ Phật.
Ghi chú
Tam thế còn gọi Tam thân, gồm ba pho tượng Phật, đều ngồi trên tòa sen theo thế tĩnh tọa. Biểu tượng của ba thời kỳ tu hành quá khứ, hiện tại và tương lai.
- A di đà là đức Phật thời quá khứ, chúng sinh được thỏa mãn trong cuộc sống, cầu được ước thấy (có nơi vị trí này lại là đức Phật Thích Ca. Hai bên thường có Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền).
- Di Lặc là đức Phật sau này, để tiếp độ chúng sinh.
- Quan Âm (hoặc Diệu Thiện) có 12 hoặc 24, 36 tay, 100 mắt, 1000 tay...
- Tòa Cửu Long: Phật Tổ lúc sơ sinh, có 9 rồng phun nước, xung quanh thường có nhiều tượng nhỏ thuộc Phật giới.
Hệ thống tượng pháp bài trí trên đây vừa bộc lộ sự cao quý, thể hiện pháp lực nhằm cứu vớt chúng sinh, đủ chứng minh lòng từ bi rộng lớn của đức Phật, để giải thoát cho con người vượt bể khổ trầm luân. Do vậy, khi đến chùa hẳn mọi người nhận ra đức tính bình đẳng, từ bi hiền hòa và chính đức tính đó đã làm cho bản thân thanh thản, lại làm cho tâm rung động trước nỗi khổ của mọi người. Qua đó mà vững vàng thêm lý trí, nỗ lực hành động để giải thoát cho mình và cho cả người khác.
Nhưng khi lên chùa, trước cửa Tam Bảo có ba điều quý đó là “Phật, Pháp, Tăng” phải giữ sao cho hài hòa. Dân gian thì nói: “Kính Phật trọng Tăng”. Do vậy, thấy Tăng ni mọi người tỏ thái độ kính trọng. Còn việc sắm lễ thì đâu phải “vô vật bất linh ”. Mà chính là do ở tâm thành, như người xưa đã nói “Linh tại ngã bất linh tại ngã”. Do vậy, đi lễ chùa chỉ cốt tâm , lễ vật phải thanh tịnh thì sẽ có linh nghiệm .
Đến chùa chỉ nên sắm hương hoa, oản quả, chớ đem lễ mặn lên ban thờ Phật. Nghĩa là chỉ dâng cỗ chay. Còn nếu trong nội tư thờ các bậc Thánh như Thánh Mẫu thì có thể thêm lễ mặn nhưng tránh sự rườm rà. Điều quan trọng là trước khi lên chùa lễ Phật thì tâm phải trong, không có hành vi độc ác, chua ngoa, tục tĩu... nếu vậy thì đã làm đúng lời Phật dạy và cũng là nét đẹp văn hóa của bản chất dân tộc.
3. Nghi lễ thờ cúng tại Chùa
Tuy chùa có nhiều tòa, nhiều ban lễ nhưng giáo lý nhà Phật không ngặt nghèo, cố chấp vào việc lễ. Do vậy, việc lễ chùa khá đơn giản, dễ lễ, dễ kêu cầu. Mọi người có tâm thành đều có thể lễ được.
- Nhiều người dâng lễ tại chính điện trước, rồi mới tiếp tục đến ban Đức ông, ban Thánh Hiền, Nhà Tổ, Nhà Mẫu. Nghĩa là lễ chư vị Phật, Bồ Tát, Ngọc Hoàng trước. Nhưng cũng nhiều người hiểu vai trò Đức ông, là người cai quản ngôi chùa nên đến đặt lễ thỉnh cầu sở nguyện với Đức Ông trước rồi mới đặt lễ, dâng hương tại chính điện và các ban, nhà Tổ, nhà Mẫu.
- Khi lễ thường vái ba hoặc năm vái. Nếu có văn khấn cầu xin vị nào về việc gì đó thì đọc khấn trước ban đó, khấn xong hóa văn khân như để các vị tiếp nhận sự kêu cầu, đặng phù hộ cho mình...
- Lễ xong (gần cháy hết nén nhang, khoảng 2/3 nén) thì hạ lễ. Hạ lễ xong có thể đem một phần lộc, hoặc ít tiền dầu nhang lên trai phòng cảm tạ nhà chùa. Có người muốn cúng đường hoặc phát tâm tu bổ chùa cảnh, tượng pháp thì bỏ vào hòm công đức, hoặc trao đổi với nhà chùa hay ban quản lý chùa.
- Một số người là Phật tử thì các ngày sóc, vọng đều phải trai giới, chay tịnh (ăn chay, ngủ riêng), mặc y phục chỉnh tề lên chùa lễ Phật, đọc kinh sám nguyện, khóa nhật tụng hay kinh Dược sư...
- Đối với khách hành hương thì có thể khấn miệng, nếu có văn khấn trên giấy, trên sách thì mở đọc cũng được. Xin giới thiệu một vài bài văn khấn nữa để bà con tham khảo, tiện sử dụng khi đi lễ chùa.
3.1 Văn khấn trước chính điện (Tam Bảo)
(Vái 5 vái)
Nam mô A di đà Phật!
Nam mô Thích ca Mâu ni Phật!
Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quan thế âm Bồ tát.
Hôm nay là ngày........tháng............năm ..........................
Tín chủ chúng con là .................. cùng với giaquyến..................
Nguyên quán tại....................................................................
Trú quán tại......thôn (phố)............ phường (xã)............. huyện (thành phố) ........... tỉnh ..............
Thành tâm trước phật đài, lễ vật hương hoa, nhất tâm kính lễ.
Kính mong Phật tổ chứng giám, chư vị Bồ tát vị tha. Đức Ông Thập bát Long thần mở lòng nhân từ đại xá Trí tuệ mở mang, ưu phiền giảm nhẹ.
Nhờ ánh hào quang soi tỏ, khiến nghiệp chướng tiêu tan.
Tâm đạo tỏ tường cõi lòng được thanh thản.
Chúng con xin nhất tâm thiện nguyện,
Cầu mong cho gia cảnh bình yên.
Bốn mùa, tám tiết gia đạo hưng long,
Quang năm thịnh vượng, lộc tài đưa đến.
Chúng con kính lạy trước Phật đài, của từ bi quảng đại.
Nhất sự nhất xá, vạn sự cho qua,
Dãi tỏ tấc thành, cúi xin giám cách.
Nam mô A di đà Phật!
Nam mô A di đà Phật!
Nam mô A di đà Phật!
(Vái 5 vái)
Hiện nay, một số gia đình có người chết, thường lên chùa làm lễ cầu siêu, mong cho vong linh cầu siêu được siêu thoát. Việc làm này đã có từ lâu đời, nó là tục lễ, do vậy xin đề cập để mọi sự tham khảo bài văn cầu siêu:
3.2 Văn khấn cầu siêu cho gia tiên
Trước tam bảo chúng con trộm nghĩ:
Mười phương Phật đại giác, soi tỏ chôn đường mê. Ba cõi đức đại sư, thả thuyền từ nơi bể khổ.
Nay tín chủ chúng con là .................................................
Ngụ tại....................................................................................
Cùng toàn thể gia quyến, cháu con...............................
Trước Phật đài làm lễ cầu siêu độ................................
Cho Gia tiên là (ông, bà, cha, mẹ...)
Tên là... năm sinh... hưởng thọ ......................................
Mất........ giờ.......... ngày........... tháng.........năm .
Phần mộ mai táng tại xứ đồng........... xã ............huyện..........tỉnh .......................
Chúng con kính dâng được hồng ân Tam bảo, đại xá cho vong linh. Bởi lúc bình sinh nơi trần thế, tuệ cạn chướng sầu, nghiệp dày phúc mỏng.
Sai lầm đã lắm, ân oán khó qua,
Nay lễ cầu siêu, tỏ lòng sám hối.
Kính lạy trước Tam bảo mười phương chư Phật.
Kính lạy đức giáo chủ Thích Ca Mâu ni Phật.
Kính lạy đức Đại Tạng vương Bồ tát...
Chư vị đại từ, đại bi, cứu khổ cứu nạn.
Cứu vớt vong linh...
Được thoát cõi u đồ, nấp bóng đài sen cửa Phật.
Để được hưởng một kiếp thảnh thơi thân cung mát
Lại xin cầu nguyện cho chúng con:
Sở nguyện tòng tâm, tứ thời mạnh khoẻ
Điều lành hay đến, việc dữ tránh xa.
Khang thái vinh hoa gia môn phổ cập.
Nam mô A di đà Phật!
Nam mô A di đà Phật!
Nam mô A di đà Phật!
(Vái 5 vái)
Hàng năm nhân dân lên chùa lễ Phật theo các ngày sóc, vọng (rằm, mồng một) đặc biệt là các ngày lễ tiết như tết Nguyên Đán; lễ rằm tháng Giêng. Lễ ngày đức Phật đản sinh 15 tháng 4 (trước đây là vào ngày 8 tháng 4).
Mọi người cũng đi lễ chùa rất đông vào ngày rằm tháng Bảy là ngày lễ Vu Lan (xá tội vong nhân). Ngoài những ngày đó còn có các ngày lễ vía Phật Thích Ca nhập niết bàn (mồng 8 tháng 2), lễ vía Quan Âm Bồ Tát, phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát...
Do vậy nếu chuyên tâm đi lễ chùa chắc cũng mất nhiều thời gian. Đó là chưa kể ở một số chùa còn thờ vua, thờ Thánh, thờ các vị quốc sư, thờ các bậc danh y... nên nhà chùa cũng phải sắp xếp khoa học để giảm nhẹ phần nào việc nghi lễ, mà vẫn trọn vẹn việc đạo, việc đời.
Tín đồ, Phật tử cũng như khách hành hương đi lễ chùa còn có nhu cầu được Phật Thánh tế độ cho việc tăng tài, tăng lộc, cầu xin khỏi bệnh, bán khoán ư ẻ nhỏ để mong con cháu mau lớn, khỏe mạnh... Việc bán khoán là tập tục thường làm ở đền thờ, nhưng ở chùa cũng có lễ bán khoán, tức là làm lễ cầu Phật, cầu Đức ông nhận trẻ nhỏ làm con cái, bảo vệ, phù hộ cho trẻ mạnh khoẻ, thông minh cho đến lúc trưởng thành. Có người làm lễ bán hết một giáp (13 tuổi), sau đó phải làm lễ để chuộc lại đứa trẻ nhưng cũng có người lại làm lễ bán khoán trọn đời (tuỳ theo gia chủ) và đứa trẻ sẽ không phải làm lễ chuộc lại nữa. Sớ bán khoán được lập thành ba bản, một bản đốt sau khi hành lễ, một bản nhà chùa lưu, một bản mại chủ giữ. Khi nào con lớn làm lễ chuộc lại thì sẽ đốt hết văn khoán.
Thông thường nhà chùa sẽ hướng dẫn cho gia chủ sắm lễ, đồng thời hướng dẫn làm văn khấn, việc này hiện nay ít người thực hiện vì đa phần nhà chùa sẽ khấn cho.
3.3 Văn khoán khấn mại đồng tử
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập tự do hạnh phúc
Tuế thứ... tỉnh... huyện (thành phố)... xã (phường)... Y vu... tự cự.
Phụng Phật Thánh tiến lễ khất mại đồng tử, lập khoán văn kỳ binh an diên thọ sự.
Kim thần mại chủ (tên người đứng bán)... thê... đồng phu thê đẳng.
Hỷ kiến cư... niên... nguyệt... nhật... thời..., sinh hoạch nam (nữ) tử niên phương ... tuế.
Lự kỳ hình xung, tướng khắc, quỷ mị vi ương. Tất bằng Thánh đức dĩ khuông phù, hạt ký duyên sinh vu tính mạch. Vị thử, y dục thọ Tràng đẩu vu;
Phật thánh tọa hạ mại quy. Cung duy
Nam mô phật phương vô lượng thường trụ Tam bảo
Kim liên toạ hạ.
Nam mô đại từ đại bi, linh cảm Quan Thế Âm Bồ tát,
Hoàng liên toạ hạ.
Bản tự thập bát Long thần già lam chân tể, vị tiền.
Vọng vi Thần tộc chi môn; nguyện chi minh linh chi tử
Kim khất cải tính danh vi... (cải họ tên mới)
Cấm trừ chủ Quan sát sự. Thần phục vọng;
Đức đại khuông phù, âm phù bảo hựu.
Vận thần thông lực, tiến trừ tà quỷ vu tha phương. Khử chúng hung đồ tốc phó doanh châu ư ngoại cảnh.
Tự tư hưởng hậu, bất đắc vãng lai.
Nhược ngoan tà đẳng chúng bất tuân,
Chiếu pháp luật thi hành.
Túc mại chủ... cử tấu.
Thánh hiền ư luật trị tội, tu trí khoán giả.
Hữu khoán ngưỡng.
Tả thiên thiên lực sĩ
Hữu vạn vạn hùng binh.
Trung sai ngũ hổ đại tướng quân.
Đẳng quan, chuẩn thử.
Kê: Nhất phó phụ mẫu, sớ sinh dưỡng dục chí... tuế thục khoán, tái mại bách tuế như nghi vi chiếu dụng giả nhị viên chứng kiến.
Tả Đương niên Hành khiển chí đức Tôn thần.
Hữu Đương cảnh Thành Hoàng bản thổ đại vương từ hạ vi bằng.
Tuế thứ... niên... nguyệt... nhật... thời lập khoán
Thích Ca Mâu ni Như Lai di giáo đệ tử thần phụng hành.
Đã bán khoán và trở thành con cái nhà Phật thì các ngày lễ lớn, hoặc sóc vọng, thường phải lên chùa làm lễ.
Người bán con là mại chủ thì khấn theo bài văn sau:
3.4 Văn khấn dành cho gia chủ
Nam mô A di đà Phật (5 lạy)
Hôm nay là ngày.......tháng...........năm .............
Con mại chủ tên là... cùng vợ (hoặc chồng) là... cùng mại tử là... trước Phật đài chúng con xin cúi lạy chín phương trời, mười phương chư Phật.
Kính lạy đức ông bản tự Thập bát Long Thần Già lam chân tể.
Chúng con chí tâm chí thành, sắm biện lễ vật hương hoa, nhân ngày... dâng lên đức Phật cùng đức ông bản tự. Kính mong chư vị lượng trời soi xét, xá tội xá lỗi, độ trì cho m ại tử là... cùng gia quyến bình an vô sự, thịnh vượng an khang. Điều lành đưa đến, điều dữ đuổi đi, tám tiết bốn mùa, không lo vận hạn lại kính mong chư vị mở lượng xét soi.
Cho chúng con được sở cầu như ý.
Cho m ại tử được tốt bằng người, tươi bằng bạn vạn sự khang ninh.
Nam mô A di đà Phật!
Nam mô A di đà Phật!
Nam mô A di đà Phật!
(Vái 5 vái)
Viết bình luận